Thursday 28 April 2011

Lm Chân Tín CSsR: Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolo II và sự sụp đổ của chế độ cộng sản

Về cuộc sụp đổ đế quốc cộng sản, Đức Giáo Hoàng nói:
“Có thể là đơn giản khi nói rằng Đấng Tối Cao đã gây ra sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản tự nó sụp đổ, vì hậu quả của những lỗi lầm và sự đối xử tồi tệ của riêng nó. Chủ nghĩa cộng sản tự nó sụp đổ vì sự yếu kém cố hữu của nó.”

Ngày 1-5-2011, Đức đương kim Giáo Hoàng Bênêđictô XVI sẽ cử hành lễ tuyên phong chân phước Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tại Đền thờ Thánh Phêrô, Vatican, Roma.

Nhân dịp này, tôi có ý cùng toàn thể Giáo Hội ca tụng công đức của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Thêm vào đó, tôi còn có một vài lý do riêng. Ngài với tôi cùng một tuổi. Ngài sinh ngày 18-5-1920, lấy tên là Karol Jozef Wojtyla, tại Balan. Còn tôi, sinh ngày 15-11-1920, tại Việt Nam. Sau khi làm linh mục, ngài với tôi cùng học một trường đại học ở Roma. Đàng khác, ngài và tôi có cùng một tinh thần chống chủ nghĩa cộng sản.

Với tuổi già và sự hiểu biết lịch sử có hạn, tôi vẫn muốn góp nhặt một vài biến cố về Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong sự sụp đổ của đế chế cộng sản. Đặc biệt những biến cố đó đã được ghi lại trong cuốn sách “His Holiness John Paul II and the Hidden History of Our Time” của hai nhà báo Carl Bernstein và Marco Polili. Cuốn sách này đã được Nguyễn Bá Long và Trần Quy Thắng dịch, Nhà xuất bản Công An Nhân Dân in tại Hà Nội, 1997, 911 trang.
*Cuộc hành trình đầu tiên của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II với tư cách giáo hoàng đến Balan
Ngày 2-6-1979 chiếc máy bay của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã hạ cánh xuống thủ đô Balan. Vào lúc đó, những tiếng chuông từ tất cả các nhà thờ ở Balan đều gióng lên. Giáo sư Henryk Jablonsky Chủ tịch Hội đồng Nhà Nước Balan sốt ruột nhìn, khi chiếc máy bay phản lực trắng toát của hãng hàng không Alitalia bắt đầu hạ cánh xuống sân bay Vacxava. Giờ đây, chiếc máy bay đang hạ cánh xuống Vacxava giống như một thiên thạch và không một ai biết tác động của nó sẽ như thế nào. Người lái chiếc máy bay của ngài, sau khi vào không phận Balan, đã lượn một vòng cho chiếc máy bay bay qua thành phố Krakow. Ngày 1-10-1978, ở tuổi 58, Ngài Karol Wojtyla (tên của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II) đã rời thành phố đó với cương vị hồng y giáo chủ. Ngài nhìn xuống những khung cảnh quen thuộc:

“Tôi trở về, tôi trở về để gặp lại Giáo Hội mà từ đó tôi đã ra đi”, ngài đã nói như thế với thủ tướng Italia G. Andreotti khi rời khỏi Roma. Từ khoang lái, phi công có thể nhìn thấy những dòng người vô tận đang đi tới trung tâm Vacxava và những đám đông tập họp lại dọc theo con đường mà Đức Giáo Hoàng sẽ đi từ sân bay vào thành phố. “Với tôi, đây là một chuyến trở về nhà”, Đức Giáo Hoàng mỉm cười nói với một nhà báo người Balan. Khi Đức Giáo Hoàng quỳ xuống hôn lên mặt đất tại sân bay và ôm hai bé gái đến chào đón Ngài, với những lẵng cẩm chướng trắng và đỏ (những sắc màu của Balan) cùng với những bông huệ trắng và vàng (những sắc màu của Vatican), tiếng vang của những hồi chuông kia đã dội tới các đường biên giới của Đông Đức, vượt qua biên giới Tiệp Khắc, băng qua những rào chắn của Ukraina và Belorussia ở Liên Xô và của nước Latvia. Trong những ngày tiếp theo đó, ý nghĩa của những hồi chuông nhẫn nại này sẽ trở nên rõ ràng hơn đối với hàng triệu người. Nghi lễ trong những giây phút đầu tiên của chuyến viếng thăm này đã xác nhận rằng trong cả một ngàn năm, Giáo Hội Balan vẫn là hiện thân của dân tộc Balan, bất chấp những cuộc chiến tranh, giềt chóc, chia cắt, thanh trừng…

Trên khắp nước Balan, màu cờ đỏ của của chủ nghĩa cộng sản dường như đã biến mất một cách kỳ lạ, và ở đó chỉ còn lá cờ của quốc gia Balan và của Tòa Thánh. Trong chín ngày sau đó, dân chúng Balan và đặc biệt giới trẻ sống trong một tâm trạng phấn khởi, xem như họ mục kích sự xuất hiện của một đấng cứu tinh. Cảm giác này rất choáng ngợp và không thể cưỡng lại được.

Thoạt nhìn thấy ngôi nhà thờ lớn, gương mặt Đức Giáo Hoàng thay đổi và những giọt nước mắt bắt đầu chảy dài trên hai gò má của Ngài. Một số người xung quanh Ngài gào thét lên, thế nhưng nhiều người khác không reo hò mà chỉ đắm nhìn Ngài và cũng giống như Ngài, khóc để những tình cảm dịu bớt. Thánh lễ của Đức Giáo Hoàng được cử hành ở trung tâm Quảng Trường Chiến Thắng, nơi có tượng đài chiến sĩ vô danh của Balan, thường chỉ có đảng cộng sản sử dụng quảng trường này cho các cuộc duyệt binh, mít tinh quần chúng. Khi Đức Giáo Hoàng đến quảng trường vào lúc 4 giờ chiều hôm đó, ba trăm ngàn người đang chờ đợi và hàng chục ngàn người khác không được cho vào đã tập trung quanh khu vực trung tâm thành phố.

Trong thánh lễ, Đức Giáo Hoàng đưa ra một tuyên ngôn mà các nhà lãnh đạo đảng cộng sản Vacxava lo sợ nhất: “Đối với Balan, Giáo Hội đã đưa Chúa Giêsu tới, chiếc chìa khóa để hiểu được thực tiễn vĩ đại và cơ bản là con người…Không thể loại Chúa Giêsu khỏi lịch sử nhân loại ở bất kỳ nơi đâu trên trái đất này, tại bất kỳ kinh tuyến hay vĩ tuyến nào của hành tinh. Loại trừ Chúa Giêsu khỏi lịch sử nhân loại là một tội ác chống lại loài người”. Với những lời đó, Đức Giáo Hoàng đã bãi bỏ toàn bộ chính sách phương đông Ostpolitik mà Vatican đã thúc đẩy suốt hai mươi năm trước đó. Các Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII và Phaolô VI đã theo chính sách đó để giảm bớt căng thẳng giữa Giáo Hội và các chế độ cộng sản, để làm bớt đi khả năng diễn ra các cuộc thanh trừng mới, để có thêm nhà thờ được xây lên, thêm linh mục, giám mục được bổ nhiệm, nói tắt là để đưa đến cùng tồn tại hòa bình, nhưng mất đi tiếng nói ngôn sứ của Giáo Hội. Điều đang diễn ra giờ đây ở Quảng trường Chiến Thắng của Vacxava là một bước đột phá lớn đối với Giáo Hội ở Balan, Đông Âu, Liên Xô và trong các vấn đề quốc tế. Qua Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Giáo Hội đang tuyên bố một vai trò mới và qua Ngài, Giáo Hội đang đòi phải tôn trọng nhân quyền cũng như giá trị của Kitô giáo. Những đòi hỏi này thể hiện một cuộc tấn công trực diện vào những kỳ vọng phổ biến của cộng sản, cái mà giờ đây đã trở thành một cái vỏ rỗng tuếch tại các nước nằm dưới ảnh hưởng của Xô Viết.

Chuyến đi đầu tiên của Đức Giáo Hoàng tới Balan là một biểu hiện công khai ngoạn mục về quyền lực tiềm tàng của Ngài.

* Đức Giáo Hoàng và đảng cộng sản Balan

Ngày đầu tiên trở về Balan trong hào quang chiến thắng, ngày 2-6-1979, Đức Giáo Hoàng đã làm cho nhà cầm quyền cộng sản Balan và Liên Xô run sợ. Ngay những lời đầu tiên của Đức Giáo Hoàng trong cuộc nói chuyện với Bí thư thứ nhất Đảng Công nhân Thống nhất Balan, Edward Gierek, đã gây náo động. Đức Giáo Hoàng đã phát biểu công khai hy vọng của Ngài về một bản thỏa thuận giữa Giáo Hội và chính quyền, điều mà ông Edward Gierek không hề muốn. Đức Giáo Hoàng cũng đưa ra danh mục một loạt các điều kiện được đặt ra để thuyết phục nhà cầm quyền cộng sản tin rằng họ sẽ phải tồn tại một cách hòa bình với Giáo Hội.

Khi ông Edward Gierek nói về sự hòa dịu trong quan hệ quốc tế, Đức Giáo Hoàng đáp lại:
“Hòa bình và việc thiết lập lại các mối quan hệ phải được đặt trên cơ sở tôn trọng quyền bình đẳng giữa các dân tộc, trong đó có quyền xây dựng và tạo lập nền văn hóa, văn minh riêng của họ”.

Khi ông E. Gierek nói về những cam kết an ninh và vị trí của Balan trong cộng đồng quốc tế, ông muốn đề cập đến liên minh trong khối COMECON và hiệp ước Varsava (cả hai khối này đều hoàn toàn bị chi phối và điều hành bởi Liên Xô), Đức Giáo Hoàng nói: “Tất cả các loại hình nô dịch về chính trị, kinh tế, văn hóa đều đi ngược lại với sự đòi hỏi của luật lệ quốc tế. Những hiệp ước đảm bảo là những hiệp ước dựa trên cơ sở sự tôn trọng lẫn nhau và công nhận lợi ích của mỗi dân tộc”.

Sự thẳng thắn và dũng cảm của Ngài đã bất ngờ thuyết phục được nhà lãnh đạo cộng sản, ông Gierek tỏ ý sẳn sàng ký một giải pháp cơ bản về các hoạt động của Giáo Hội trong xã hội Balan, Đức Giáo Hoàng muốn chính quyền Balan công nhận rằng: Giáo Hội phục vụ con người trong khía cạnh cuộc sống trần thế của họ, và đó là các hoạt động chính trị và xã hội của họ.

Tất cả những điều Đức Giáo Hoàng nêu lên, đã làm cho đảng cầm quyền ở Balan và Liên Xô sợ. Bằng những bài phát biểu mạnh mẽ, Ngài thách thức thế giới quan, tư tưởng của chế độ Cộng Sản, đặt vấn đề về vai trò của nhà nước, về mối liên minh giữa Balan và Liên Xô, kể cả về những sự phân chia bản đồ địa lý – chính trị ở Châu Âu sau chiến tranh thế giới thứ II. Tướng Jaruzelski , người đang theo dõi các hoạt động của Đức Giáo Hoàng từ trung tâm chỉ huy ở Bộ Quốc phòng, có thể thấy các đồng chí của ông trong Bộ Chính trị Balan đã cực kỳ bối rối, thậm chí sợ hãi. Đối phó và phản ứng lại Đức Giáo Hoàng, đó là vấn đề nan giải đối với Kremli. Nghiêm trọng là nhiều đoạn trong bài diễn văn của Đức Giáo Hoàng, theo họ, đã vượt quá những khuôn khổ hoạt động tôn giáo một cách nguy hiểm. Bí thư thứ nhất của Đảng cộng sản Balan, Gierek và Thủ tướng Piotr Jaroszewicz đã bày tỏ sự quan tâm của họ về cái gọi là “sự lật đổ”.

* Đế chế cộng sản rung động

Mùa hè 1980, những cuộc đình công đã gây chấn động ở Balan. Đây không hoàn toàn là những cuộc đình công, mà còn là những cuộc nổi loạn chính trị, như Brezhnev nhận xét, chính xác là “cuộc phản cách mạng”.

Phong trào này, giống như tất cả các cuộc cách mạng xã hội mang tính lịch sử, đã tập họp được một nhóm lực lượng chính trị ghê gớm – những người lao động, giới trí thức và Giáo Hội – mà trước đây họ không hề thống nhất với nhau được một cách dứt khoát, rõ ràng đến như vậy. Một ủy ban bảo vệ công nhân đã được thiết lập, viết tắt là KOR, do những nhà trí thức thành lập, nhằm giúp đỡ những công nhân bị bắt giữ hoặc bị xử bắn sau lần bạo động nổ ra năm 1976.

Câu lạc bộ những nhà trí thức theo Kitô Giáo, các Giám Mục, có sự hậu thuẫn của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, bây giờ đang tiến hành thử nghiệm truyền đạo qua Tin Mừng về nhân quyền. Phong trào công đoàn độc lập bắt đầu hình thành trong các thành phố chính, trong suốt năm 1978 – Công đoàn Tự do được hình thành.

Lech Walesa đứng ra tổ chức cuộc đình công ở xưởng đóng tàu Lênin. Walesa đưa ra một bản yêu cầu gồm 16 điểm, quan trọng nhất trong đó là sự công nhận của Chính Phủ về các công đoàn tự do. Mặc dầu cuộc đình công lúc đầu bị giới công nhân dự định hủy bỏ vì nhà nước đã tăng lương, nhưng rồi với sự thuyết phục của Walesa, cuộc đình công vẫn tiếp tục tái diễn, với sự tham gia rất đông công nhân. Walesa đưa ra một bản yêu cầu mới với 21 điểm cơ bản. Nội dung của cuộc đình công và đòi hỏi mới có tính táo bạo của công nhân đã lan nhanh trên khắp vùng biển Baltic. Ngày làm việc đã bị đình lại trong hơn 180 xí nghiệp. Những người tham gia đình công đã tỏ bày những bất bình của họ đối với chế độ bằng cách hát thánh ca và các bài hát yêu nước, và phất cờ tổ quốc trong những nhà máy đang đình công. Người ta báo cho Đức Giáo Hoàng: “Những hạt giống được Đức Thánh Cha gieo vãi đang nở hoa”.

* Vụ ám sát Đức Giáo Hoàng

Ngày 13-05-1981, Đức Giáo Hoàng bị ám sát bởi Mehmet Ali Agca. Vụ ám sát này được giám đốc CIA, Robert Gates coi như âm mưu của Cộng Sản Liên Xô. Agca được bảo vệ và bao che bởi cơ quan tình báo Bungari, một tổ chức lệ thuộc vào cơ quan KGB của Liên Xô. Và đó cũng là nhận định của Andreotti, người lãnh đạo đầy quyền lực của Đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo Italia.

Những người cộng sản Liên Xô muốn giết hại Đức Giáo Hoàng, vì cái chết của Ngài dường như là cách duy nhất nhằm bóp chết Công đoàn Đoàn kết. Hồng Y Achille Silvestrini, thứ trưởng Bộ Ngoại Giao của Toà Thánh cũng xác nhận: “Nếu âm mưu ám sát Đức Giáo Hoàng thành công, thì đó sẽ là tấm bia mộ cho Balan, và cho những người đang đối đầu với sự kiểm soát của hệ thống Xô Viết”.

Đáp lại sự lên án của phương Tây, Liên Xô cho rằng cùng với một số âm mưu khác, Mỹ đã đứng đàng sau âm mưu ám sát Đức Giáo Hoàng.

Đức Giáo Hoàng tin rằng: số phận của Ngài được bảo vệ nhờ phép lạ của Đức Mẹ Fatima…

“Một người nổ súng nhưng một người khác lại hướng dẫn quỹ đạo viên đạn”. Ngài đã gởi đến Liên Xô một tín hiệu “tha thứ”.

* Cuộc đấu tranh không khoan nhượng

Ngày 18-08, trong một bài nói chuyện được phát trên truyền hình, Gierek đã hứa cải tổ và đưa ra sự đe dọa: “Vận mạng của đất nước gắn liền với hệ thống xã hội chủ nghĩa …, những nhóm người vô chính phủ, chống lại chủ nghĩa xã hội đang cố gắng khai thác triệt để tình hình, nhưng chúng ta sẽ không dung thứ bất kỳ một yêu sách hay hoạt động nào nhằm mục đích phá hủy trật tự xã hội ở Balan.”

Các đơn vị quân đội và hàng loạt xe cảnh sát đã bắt đầu tràn về phía bờ biển Baltic. Nhưng số lượng người tham gia đình công đã tăng vọt, lên đến khoảng 300.000 người. Các cuộc đình công đã lan tràn khắp nơi. Cương lĩnh mà Walesa đã chuyền tới tay công nhân là hoàn toàn nghi ngờ toàn bộ hệ thống chế độ cộng sản. Lời kêu gọi đối với các công đoàn độc lập đã gạt bỏ những lý lẽ cho rằng chỉ có đảng cộng sản là một đại diện duy nhất mang tính lịch sử cho tầng lớp lao động. Sự đòi hỏi hủy bỏ các cơ quan kiểm duyệt báo chí, thông tin và đòi quyền sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng cho các công đoàn tự do và Giáo Hội, đã phủ nhận quyền sử dụng của đảng cộng sản về công cụ đầy hiệu quả này để duy trì sự độc tôn về quyền lực.

Ngày 20-08, khi phong trào đình công bị đe dọa, dẫn đến tình trạng tê liệt mọi hoạt động có màu sắc chính trị lâu dài, Đức Giáo Hoàng nói với một nhóm người Balan hiện diện tại Quảng trường Thánh Phêrô ở Rôma:

“Chúa ban cho chúng con, qua sự can thiệp giúp đỡ của Đức Mẹ, biết rằng tôn giáo có thể luôn luôn được hưởng tự do và rằng tổ quốc chúng ta có thể được hưởng sự an ninh. Lạy Chúa, xin giúp đỡ những con người này và luôn luôn che chở họ khỏi mọi hiểm nguy, cám dỗ và điều ác.” Sau đó Đức Giáo Hoàng nói thêm: “Lời cầu nguyện trên đây cho thấy rằng tất cả chúng ta ở Rôma đều thống nhất với những người yêu nước ở Balan, với Giáo Hội ở Balan, mà những vấn đề của họ có liên quan mật thiết với trái tim của chúng ta.”

Ngày 23-08 một cuộc tranh chấp kịch liệt nổ ra trong trong đảng cộng sản Balan, giữa phe cứng rắn muốn áp đặt thiết quân luật và nhóm người tán thành sự thỏa hiệp và tránh sử dụng quân đội. Cùng hôm đó, Đức Giáo Hoàng đưa ra một mệnh lệnh chính trị rõ ràng:

“Tôi cầu mong với tất cả lòng nhiệt thành rằng: các Giám Mục của Balan, thậm chí ngay bây giờ, có thể giúp đỡ đất nước trong cuộc đấu tranh đầy khó khăn, để dành lấy bánh hằng ngày, dành lấy công bằng xã hội, sự bảo đảm quyền bất khả xâm phạm cho sự sống và sự phát triển của Balan.”

Vào đêm đó, chính phủ đã thực hiện một sự nhượng bộ có tính lịch sử, chấp nhận đàm phán với các ủy ban đình công của 3 thành phố. Ngay từ đầu, cuộc đàm phán đã trở thành một cuộc chất vấn đầy kịch tính, kéo dài một tuần. Một nhóm cố vấn đã xuất hiện ngay bên cạnh Walesa. Nhóm này gồm các trí thức, giáo sư và viện sĩ Viện Hàn Lâm Khoa Học Balan. Hai trong số những người này có quan hệ mật thiết với Đức Giáo Hoàng. Với sự xuất hiện nhóm này, sự lãnh đạo chiến lược của phong trào (Công đoàn Đoàn kết) được chuyển giao hầu hết cho Giáo Hội.

Lập trường kiên định của Đức Giáo Hoàng sẽ quyết định cuộc khủng hoảng ở Balan. Ngày 27-08, với sự chỉ đạo của Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục Balan đã thông qua một tài liệu và tuyên bố một cách dứt khoát quyền độc lập của các tổ chức đại diện cho công nhân và của các tổ chức tự quản. Ý chí của Đức Giáo Hoàng đã trở thành ý chí của cả dân tộc. Giờ đây, chính phủ không còn gì nhiều để lựa chọn, ngoài việc phải chấp nhận. Lech Walesa biết rằng ông đã được Đức Giáo Hoàng ủng hộ.

Ngày 05-09, Edward Gierek mất chức bí thư của Đảng Cộng Sản Balan. Liên Xô chuyển cho Đức Giáo Hoàng một thông điệp yêu cầu Đức Giáo Hoàng kiềm chế Công đoàn Đoàn kết trong việc đưa ra các yêu sách và những vấn đề dễ gây căng thẳng. Đàng khác, qua thông điệp này, họ thông báo rằng, họ sẽ dùng quân đội để can thiệp, nếu Công đoàn Đoàn kết đe dọa những lợi ích sống còn của Liên Xô. Đức Giáo Hoàng cố gắng tìm kiếm một sự cân bằng khó khăn và mong manh. Đó là ủng hộ Công đoàn Đoàn kết, giữ cho Liên Xô không can thiệp, tránh không đi quá xa trong các yêu sách và tránh khiêu khích chính quyền.

Vào mùa thu năm 1980, những người cộng sản ở Berlin (Đức), Budapest (Hungari), Praha (Tiệp Khắc) thực sự hoảng sợ bởi những gì đang xảy ra ở Balan.

Lech Walesa đến Rôma yết kiến Đức Giáo Hoàng. Ngài đã tổ chức một thánh lễ riêng cho 14 thành viên của đoàn đại biểu của Công đoàn Đoàn kết. Đức Giáo Hoàng cũng tiếp Lech Walesa 2 lần. Ngài nói với phái đoàn:

“Tôi tin rằng điều cơ bản trong những hành động mạo hiểm của các bạn bắt đầu từ tháng 08-1980 ở miền duyên hải và ở những trung tâm công nghiệp lớn khác của Balan, là một xung lực chung nhằm thúc đẩy những việc đạo đức tốt đẹp cho xã hội.”

Đức Giáo Hoàng đã viết thư cho Brezhnev đòi Liên Xô phải tôn trọng chủ quyền của Balan và quyền lợi hợp pháp của Balan.

Ở Balan, Jaruzelski thì sợ rằng khi Công đoàn Đoàn kết thực sự nắm quyền, ông có thể bị cầm tù hoặc tử hình. Hơn thế nữa, điều quan trọng là vì ông là một người cộng sản trung thành, đã cam kết phấn đấu cho chủ nghĩa cộng sản và cho một nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Balan. Ông biết rằng sự thành công của Công đoàn Đoàn kết là sự kết thúc của chủ nghĩa cộng sản ở Balan. Hơn thế nữa, nó sẽ kéo theo những hậu quả ghê gớm về lâu về dài đối với hệ thống cộng sản toàn thế giới.

Giữa đêm thứ bảy, ngày 13-12-1981, Jaruzelski ban bố lệnh thiết quân luật. Hơn 10.000 người liền bị bắt. Đến nửa đêm, xe tăng và binh lính đã di chuyển vào các đường phố trên khắp đất nước.

Những phản ứng ban đầu của Đức Giáo Hoàng là cầu nguyện cho việc chỉ đường vạch lối cho người Balan. Điều e ngại lớn nhất của Đức Giáo Hoàng là người Balan sẽ quay lại chống người Balan, và rằng sẽ có một cuộc tắm máu. Nếu dân chúng Balan đổ xô ra đường phố, điều đó sẽ tạo cho người Xô Viết cái cớ để can thiệp vào Balan và gây ra đổ máu nhiều hơn. Sự áp bức là không thể thay đổi được. Đức Giáo Hoàng tuyên bố:

“Có quá nhiều máu của người Balan đã đổ xuống, nhất là trong cuộc chiến tranh cuối cùng. Không thể để cho máu của người Balan phải đổ thêm nữa. Mọi việc phải được làm để xây dựng một tương lai hòa bình.” Sau đó, Ngài đã giao phó người Balan cho Đức Mẹ, “Người được phái tới để bảo vệ chúng ta”

Đức Giáo Hoàng đã giao cho ông Jaruzelski một lá thư. Ngài nói:

“Những sự kiện gần đây ở Balan, kể từ khi tuyên bố thiết quân luật ngày 13-12, đã dẫn đến kết quả là nhiều người bị giết và bị thương.Và tôi buộc phải gởi đến ngài lời thỉnh cầu khẩn thiết và chân thành này, cầu mong chấm dứt việc đổ máu ở Balan.”

Trong cuộc gặp Jeruzelski, Đức Giáo Hoàng khẳng định quyền độc lập của Balan, và nêu lên vấn đề thiết quân luật. Ngài nói:

“Đối với tôi, việc giải tán các công đoàn đau đớn hơn nhiều so với việc ban bố thiết quân luật hồi tháng 12 – 1986…Tôi quan tâm đến việc đạt tới một tình trạng bình thường càng sớm càng tốt”. Ý ngài muốn nói đến tình trạng thiết quân luật.

Sau 18 tháng thi hành thiết quân luật, Công đoàn Đoàn kết không còn là một tổ chức lớn mạnh của công nhân, vai trò lãnh đạo bị xóa bỏ và hàng loạt các trụ sở bị đóng cửa. Nhưng qua chuyến thăm Balan của Đức Giáo Hoàng, Công đoàn Đoàn kết đã trở thành một tư tưởng, một lương tri, một chân giá trị. Nó là một sự thách thức đối với nhà nước Balan.

Bốn năm ba tháng sau khi ban bố thiết quân luật ở Balan, Mikhail Gocbachev được bầu làm Tổng bí thư Đảng cộng sản Liên Xô. Mùa xuân năm đó, Đức Giáo Hoàng được biết Gocbachev có thể sẽ là một dạng cộng sản kiểu khác. Trở thành Tổng bí thư được vài tuần, Gocbachev muốn biết trực tiếp càng nhiều càng tốt. Gocbachev là người chủ trương Perestroika (cải tổ) nên rất cởi mở, làm cho tướng Jaruzelzki cảm thấy có người thương cảm với mình, mà đó lại là Tổng bí thư cộng sản Liên Xô, đảm bảo rộng rãi các quyền về tôn giáo cho các công dân cộng sản. Jaruzelski đề nghị với Gocbachev nhìn nhận Vatican như là một thế lực đáng tin cậy. Ông nói:

“Tôi cho rằng Giáo Hội là một sức mạnh khổng lồ ở Balan, nghiêng về phía đối lập, nhưng nó vẫn có một vị trí khá lành mạnh”.
Ông cũng nói:

“Đức Giáo Hoàng có một nhân cách tuyệt vời , một nhà nhân văn vĩ đại, một nhà yêu nước vĩ đại. Ngài không chỉ là một lãnh tụ một tôn giáo vĩ đại, một Giáo Hội vĩ đại, mà còn là một người con của một quốc gia có số phận đặc biệt khó khăn”.

Sự xuất hiện của Gobachev đem đến sự thay đổi nhanh chóng đối với quan hệ “Giáo Hội – Nhà Nước” ở Balan và tạo ra bầu một không khí an toàn để Jaruzelski bắt đầu nới lỏng các hạn chế gắn liền với thiết quân luật. Đức Giáo Hoàng phấn khởi và hy vọng vào những đổi thay mà Gobachev đang khởi xướng. Ngài nói: “Ông ta là một người tốt nhưng ông sẽ thất bại bởi vì muốn làm một điều không bao giờ có thể làm được. Chủ nghĩa cộng sản không bao giờ có thể cải cách được”. Ngài còn nói thêm: “Perestroika là một dòng thác mà chúng ta đã tháo cho chảy và nó sẽ tiếp tục chảy. Perestroika là sự tiếp tục của Đoàn kết. Không có Đoàn kết sẽ không có Perestroika”. Dòng thác này tuôn chảy sang Tiệp Khắc. Nhân dịp Đức Giáo Hoàng phong công chúa Bohemia của Tiệp Khắc lên bậc hiển thánh, Đức Hồng Y Tomasek đã có một tuyên bố nẩy lửa trước 200 ngàn người biểu tình tại Praha ngày 21-1-1989. Sau khi đề cao công chúa Anê miền Bohemia của Tiệp Khắc, ngài nói tiếp:

“Về phần tôi , tôi không thể nào tỏ ra xa lạ với định mệnh quốc gia chúng tôi và toàn thể đồng bào đất nước tôi. Tôi không thể yên lặng trong lúc tất cả anh chị em đang hợp lực với nhau để phản đối những bất công mà anh chị em phải chịu từ 40 năm nay; người ta không thể duy trì lòng tín nhiệm đối với giới lãnh đạo quốc gia không muốn nói sự thật và chối bỏ các quyền lợi và các quyền tự do của nhân dân với truyền thống có từ hàng ngàn năm nay, những quyền này vẫn được coi là những quyền bình thường trong những quốc gia trẻ trung hơn đất nước chúng ta”. Sau khi kể những đau khổ người dân phải chịu trong 40 năm, ngài kết luận: “Tôi muốn ngỏ lời với tất cả anh chị em trong giờ phút quyết liệt này của lịch sử chúng ta. Không ai trong anh chị em được đứng ngoài lề. Hãy lên tiếng hợp với tất cả công dân Tiệp Khắc,cùng với những người thuộc sắc tộc khác, dẫu họ là tín hữu hay không có tín ngưỡng. Quyền tự do tín ngưỡng không thể tách khỏi những quyền dân chủ khác, tự do là điều không thể phân chia được. Tôi xin chấm dứt nơi đây với những lời đã từng vang dội đã lâu trong lịch sử của chúngta: “Với sự giúp đỡ của Thiên Chúa, số phận của chúng ta ở trong tay chúng ta”.

Mặc dầu các lãnh tụ cộng sản ở Đông Âu như Gustav Husak (Tiệp), Erich Honecker (Đông Đức), Nicolas Ceausescu (Rumani), Janos Kadar (Hungari) chống chủ chương dân chủ hóa của Gocbachev, cuộc dân chủ hóa vẫn được tiếp tục. Các lãnh tụ cộng sản Đông Âu sợ rằng kiểu đa nguyên sẽ kết liễu chủ nghĩa cộng sản.

* Đế chế cộng sản đã giẫy chết

Ngày 8-6-1987, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II lại thực hiện một cuộc trở về Balan lần thứ 3 hết sức thành công để phục hồi Công đoàn Đoàn kết. Đức Giáo Hoàng nhận thấy rằng sự kết thúc của chế độ cộng sản đang đến gần.

Ngày 6-2-1989, trên đất nước Balan nổ ra các cuộc biểu tình phản đối việc tăng giá cả; đại diện của chính phủ và các phe đối lập đã ngồi lại với nhau thương thuyết bàn tròn về tương lai của Balan. Sự kết thúc của một kỷ nguyên đã tới. Hiệp định cốt lõi đạt được. Các cuộc đàm phán bàn tròn đã cho phép tiến hành các cuộc bầu cử tự do vào tháng 6 cho các ghế của một bộ máy được gọi là Thượng Viện. Đồng thời, tính hợp pháp đầy đủ của Công đoàn Đoàn kết cũng được công nhận. Khi các cuộc bầu cử được tiến hành ngày 4-6 thì Công đoàn Đoàn kết đã giành thắng lợi hoàn toàn và chính thức lên nắm quyền lực.

Sự sụp đổ của Balan đã gây ảnh hưởng làm lung lay khối Đông Âu trong những ngày cuối mùa đông, cho đến khi không còn khối nào tồn tại. Quân cờ domino cộng sản đang bị đảo lộn: Hungari, Đông Đức, Bulgary, Rumani. Và tiếp đó là Liên Xô. Gocbachev tuyên bố: “Tôn giáo đã giúp cho cải tổ. Chúng ta đã từ bỏ đòi hỏi có sự độc quyền về chân lý … Ngay lập tức chúng ta sẽ không cho rằng những ai không đồng tình với chúng ta là kẻ thù”. Điều này thực sự là “một trật tự thế giới mới”.

Ngày 1-2-1989, Gocbachev, Tổng bí thư Đảng cộng sản Liên Xô yết kiến Đức Giáo Hoàng tại Vatican lần đầu tiên. Trong hơn 60 năm qua, Giáo Hội Công Giáo và điện Kremlin đã đấu tranh với nhau dữ dội.

Thế là chế độ cộng sản đã sụp đổ tại Đông Âu và Liên xô. Cuộc gặp đầu tiên giữa Tổng bí thư Liên Xô và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II tại Vatican đã hình tượng hóa phong phú cho một kỷ nguyên cuối.

Vào lúc rạng sáng ngày 19-8-1991, trong một cuộc đảo chính, các thành viên bảo thủ trong Bộ chính trị đã nắm lấy quyền lực tại Matxcơva, giam lỏng Gocbachev trong ngôi nhà nghỉ của ông ở Crimê. Boris Yeltsin, Tổng thống Cộng hòa liên bang Nga chống lại cuộc đảo chính và biến tòa nhà quốc hội Nga thành đại bản doanh của Sở chỉ huy lực lượng chống đối. Sự chống đối của ông đã nhanh chóng thúc giục các nước phương Tây ủng hộ ông. Ngày 23-8, đúng cái ngày các lãnh tụ của cuộc đảo chính đầu hàng, Đức Giáo Hoàng đã gửi một bức điện cho Gocbachev:

“Tôi xin cám ơn Chúa, vì sự kết thúc có hậu quả của cuộc thử thách đầy kịch tính kéo theo nhân dân, gia đình và cả đất nước của ngài. Tôi xin bày tỏ niềm mong ước của tôi rằng ngài có thể tiếp tục sự nghiệp vĩ đại của mình vì công cuộc đổi mới cả về vật chất và tinh thần cho các dân tộc Liên Xô, những người mà tôi thường cầu nguyện cho họ”. Thắng lợi của lực lượng chống đối của Yeltsin đã trở thành biểu tượng cho ý chí của nhân dân nhằm xóa bỏ chế độ cộng sản một lần và mãi mãi.

Về cuộc sụp đổ đế quốc cộng sản, Đức Giáo Hoàng nói:

“Có thể là đơn giản khi nói rằng Đấng Tối Cao đã gây ra sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản tự nó sụp đổ, vì hậu quả của những lỗi lầm và sự đối xử tồi tệ của riêng nó. Chủ nghĩa cộng sản tự nó sụp đổ vì sự yếu kém cố hữu của nó”.
Lm. Chân Tín, CSsR
Sài Gòn 25-4-2011

Wednesday 27 April 2011

Lm Nguyễn Thế Thuấn CSsR: Sách Thánh và Mạc Khải Cứu Rỗi (tiếp theo)

Giao Ước

Tiếng: trong dân Israel, tiếng BORIT chỉ liên lạc gây ra một sự liên đới giữa hai bên kết nghĩa. Trong những dân tộc sống dưới chế độ bộ lạc, con người không thể nào sống một mình hẻo lánh, sự sống đòi phải có hợp nhất với những người khác; sự hợp nhất đó hoặc là dựa trên huyết thống (quyền lợi nghĩa vụ, quyền lực được bảo vệ bởi vì người ta cùng chung một máu mủ với nhau) hoặc là dựa trên giao ước (bơrit) sự hợp nhất dựa trên một việc của tự do lĩnh nhận và bảo đảm quyền lợi của nhau: một điều tấn hay thoái tuỳ vào cấp độ phát triển của nhân vị, của cá nhân cũng như của một đoàn thể.

Điều làm cho BORIT có giá trị lớn lao trong Cựu Ước là những liên lạc giữa Thiên Chúa và dân của Ngưới được diễn ra bằng tiếng GIAO ƯỚC. Nhưng ở đây có những đặc điểm không thể gắp ở nơi giao ước của loài người:

-Sự tự do lựa chọn của Thiên Chúa trước tiên; Giáo ước xây dựng trên sáng kiến tuyệt đối tự do và nhưng không để tự bắt buộc mình đi vào liên đới với một dân đã được Người chọn lấy không phải do một tư cách nào của họ.

-Nhưng như một người đáng tin cậy đã hứa lời thì giữ, tiếng giao ước nói lên việc Thiên Chúa đoan ước không hối tiếc hay lật lọng, không thay đổi thái độ: Thiên Chúa trung tín là nền tảng để mỗi người trong giao ước có thể xây dựng một đời sống vững chãi, có chỗ nương tựa. Sự chắc chắn được bảo đảm nơi lời của Thiên Chúa cam đoan đó được gọi là “tin”: Trung tín nơi Thiên Chúa, và tin cậy nơi dân. Nhưng sự trung tín của Thiên Chúa là trung tín với lời của người, chứ không phải tuỳ vào dân có trung tín hay không. Sự trung tín của Thên Chúa: vô điều kiện.

Chính do bởi sự trung tín của Thiên Chúa, mà thánh sử có một hướng đi. Sự trung tín đó là điều chúng ta tin, là lý lẽ làm sao ta đặt tín thị vào Người, đón nhận lấy Lời Người đã ban. Lời Người cam đoan không phải là bâng quơ; đối với Người, hứa và giữ lời chỉ là một. Như vậy quá khứ là bảo đảm cho tương lai. Thiên Chúa là Đấng trung tín, đó là điều tôi tin; Thiên Chúa sẽ trung tín, đó là điều tôi trông cậy. Lời của Thiên Chúa cam kết và được thi hành ra trong lịch sử đó là tất cả Thánh sử, và lời cam kết đó gắng nên cụ thể thêm lên mãi, đó là đà tiến của Thánh sử, tiến cho đến chỗ mà Lời Thiên Chúa để nên cụ thể tột cùng thì đã thành một nhân vật, một con người: Lời đã thành xác phàm và ở giữa chúng ta, và đó là Giao ước mới. Từ đầu hết cho đến Chúa Yêsu, Thiên Chúa và người ta đã được liên kết bằng lời trao đo và đổi lại với nhau. Sự trao đổi cuối cùng là Thiên Chúa đã liên kết với loài người để nên một người là Chúa Yêsu. Chúa Kitô là Giao ước sẽ không hề bị phá vỡ nữa. Người ta có thể tự tách mình ra không lĩnh nhận lấy ơn của Giao ước đó; nhưng họ không thể nào làm cho sự trung tín của Thiên Chúa phải thải bỏ đi, nghĩa là làm cho Chúa Kitô hết là người ta và là Thiên Chúa. Đó là nền tảng vững chãi cho lòng trông cậy: người tội lỗi sẽ không bao giờ hết phương nại vào, vịn vào lời đoan kết của Thiên Chúa, mà Chúa Kitô là Đấng thực hiện vĩnh viễn đời đời.

Giao ước trong Cựu ước, là lý lẽ cho Lề luật. Lề luật chỉ là cách diễn ra liên lạc giáo ước về phía người ta. Lề luật không phải là phương thế tiên quyết để người ta đáng được gần gũi Thiên Chúa, kết thân với Thiên Chúa, nhưng là cách sống trong sự kết thân với Thiên Chúa; không phải là điều nhờ đó người ta kéo đến cho mình (chiếm lấy cho mình, như thể mua tậu lấy cho mình) ơn của Thiên Chúa, ân sủng, sủng ái của Thiên Chúa. Nhưng Lề luật là ơn huệ, là hậu quả của ơn huệ, là chính việc diễn bày ra liên lạc giữa Thiên Chúa và dân của Người.

Giao ước được diễn bày ra theo những công thức hiệp ước kèm theo lời chúc dữ và chúc lành cho thấy Israel không sống trong sợ sệt và nguy hiểm do tự Lề luật. Họ phải kính sợ Yavê như tôn chủ, nhưng cách phải chăng và đúng theo lòng đạo. Một đàng không thể ung dung chắc vào ân sủng mà sống làm sao cũng được: tín thị vào tư cách của mình là đã kết giao ước. Giao ước kèm theo chúc lành và chúc dữ cho thấy sự có thể vi phạm và đổ vỡ, cũng như hy vọng ơn huệ và thành sự. Như thế Giao ước bỏ ngỏ cho cánh chung (điều Thiên Chúa sẽ thực hiện cuối cùng) và đó là chỗ lời tiên tri chen vào lịch sử để nói lên phán xét của Thiên Chúa, và cảnh tỉnh lòng trông cậy bằng những lời hứa. Như vậy Giao ước kèm theo chúc lành và chúc dữ, nhưng luôn ở trong lòng tin vào sự trung tín vô điều kiện của Thiên Chúa đã làm cho Cưu ước được bỏ ngỏ cho mọi can thiệp vị lai, được bỏ ngỏ cho Giao ước.

Với quan niệm giao ước như thế, quan niệm mối liên lạc giữa Thiên Chúa và người ta theo hình thức kết thân bằng hiệp ước, nên Kinh thánh Cựu ước đã hiểu mọi liên lạc giữa Thiên Chúa và loài người theo kiểu giao ước, vì thế chúng ta thấy nói đến:

-Giao ước với Noê. Điều này diễn tả ra ý định phổ cập, đại đồng của ơn cứu chuộc. Và yêu sách nói lên trước hết là: chớ chém giết. Nghĩa là sự kính trọng đồng loại. Một điều phải tiến mãi.

-Giao ước với Môsê: Giao ước tuyệt đỉnh của Cựu Ước và nền tảng cho mọi đoạn thánh sử Cựu ước.

-Giao ước với Đavít: chỗ này tiếng Giao ước có nghĩa một lời hứa vô điều kiện của Thiên Chúa về ý định thực hiện ơn cứu chuộc cùng tận, nhưng cắm chặng bằng những nhân vật lịch sử là các vua Yuđa. Hết các trình thuật kết ước giữa Yavê và dân đều làm sáng tỏ khía cạnh Giao ước, nhưng mỗi khía cạnh được nhấn mạnh tùy nghi:

a) Giao ước là một ơn huệ Yavê ban cho dân của Người.

b) Nhờ Giao ước, Thiên Chúa đặt liên lạc giữa Người và dân, và tạo nên giữa Người và dân một dây hiệp đồng.

c) Giao ước tạo nên cho dân những nghĩa vụ cụ thể hoá dưới hình thức Luật.

Giao ước nền tảng Cựu ước là Giao ước Sinai: là cơ sở truyền thống. Những việc sống Giao ước, thì Israel được hướng dẫn theo hai hướng: hướng của hàng tư tế và hướng của các tiên tri.

-Hướng của hàng tư tế: Bơrit là nền tảng và là mục đích của tất cả sinh hoạt của dân. Bơrit nên hầu như ý niệm tôn giáo độc nhất: mọi sự là sự trên bơrit, mọi sự đều được định cả một lần duy nhát, cả việc tạo thành cũng được nhìn dưới phương diện Giao ước. Lề luật là cách dễn tả cụ thể và hiện tại cho Giao ước, và nên như đồng nhất với Giao ước. Ở trong Giao ước tức là sống chiếu theo Lề luật; và như vậy vào một thời sau, tiếng “giao ước” được dùng để chỉ dân hay tôn giáo Do thái. Giao ước về phía hàng tư tế là một thực tại tĩnh.

-Hướng của các tiên tri: là hướng đi tới, đó là hướng “động”. Chúng ta phải bàn đến ơn tiên tri dài hơn.

Hai hướng đó đều đã có công duy trì gia tài đặc sắc của đạo Yavê: hướng của hàng tư tế, bởi nhấn mạnh vào tính cách hiện tại đã có và bất biến dịch của Giao uớc, thì đã cho dân có thể kiên trì và đi đứng trước mặt Thiên Chúa. Hướng tiên tri mà nền tảng là sự mong đợi cánh chung, nghĩa là sự hợp nhất trọn hảo giữa Thiên Chúa và dân của Người; chẳng những Israel mà thôi, mà còn các dân thiên hạ, thì đã cho dân có thể nhìn lịch sử dưới ánh sáng của sự cùng tận, và như vậy đã cho dân có thể có, khi đứng trước các biến sự, một thái độ thong dong tự do, và siêu thoát với những cái gì có ngay trước mặt.

Lm Nguyễn Thế Thuấn, CSsR
(trích bài giảng huấn phổ biến nội bộ)

Friday 22 April 2011

Lm Frank Doyle sj: Bình An Cho Anh Em – Bình An Suốt Đời Người


Trình thuật ngày Chúa hiển hiện, mang an vui đến với tất cả mọi người. Từ dân con đồ đệ, cho chí dân lành nhà Đạo, đang hãi sợ. Dân con hãi sợ, vì vốn biết mình đồng hành với Đức Chúa, ắt phải chung số phận, bị đóng đinh. Vì sợ hãi đủ điều, nên đồ đệ Chúa vẫn “cửa đóng then cài”, không ngờ Ngài đến thăm.

Bình an cho anh em - shalom, là một khẳng định, và cũng là lời chúc. Lời chúc, người Do thái vẫn quen gửi đến mọi người mình gặp, trong ngày. Shalom - Bình an cho anh em, cũng là lời chào của Đức Chúa, tái khẳng định về lời hứa, khi tạ từ. Lời hứa ấy, nay được thực hiện. Lời hứa hôm tạ từ, Ngài quả quyết: bình an Ngài để lại, sẽ không hư nát, và cũng chẳng bị lấy đi. Bình an cho anh em, nay đã thành một thực thể. Thực thể có Chúa. Có anh em đồng đạo. Có cả niềm hoan lạc, Chúa đem đến.

Như Cha đã sai Thầy thế nào, Thầy cũng sai anh em như thế (Ga 20: 20). Một lần nữa, sứ mạng Thầy sai đi, gồm tóm những hai điều: trước nhất, là sự bình an Cha trao cho Thầy. Nay, Thầy cũng chuyển lại cho anh em, hệt như thế. Anh em cũng nên theo cùng một kiểu, mà làm cho nhau. Để rồi, cùng Thầy, anh em sẽ tiếp tục sống đời cộng đoàn. Có tình thương. Với an bình, của Thầy.

Và, sứ vụ Thầy gửi gấm, là phần cốt thiết nơi vai trò người đồ đệ. Và, là kinh nghiệm nhận thức và yêu thương của Đức Chúa. Và, đem kinh nghiệm này đến với mọi người. Để rồi, người người sẽ hoà hợp và hân hoan tiến bước hầu rao truyền tình thương rộng rãi, chốn dương gian. Đích thực ý nghĩa phụng vụ, ta tiến hành.

Hãy nhận Thánh Thần và tha thứ cho nhau, đây là một sáng tạo mới, Chúa tác thành. Sáng tạo, Ngài đã làm cho người con, ngay từ buổi đầu đời. Tác thành đổi mới, là yêu cầu cấp thiết Chúa gửi đến với dân con đồ đệ. Tác thành đổi mới có Thánh Linh ở cùng, sẽ giúp tông đồ chắp cánh hăng say bằng thị kiến và năng lượng, cũng rất mới. Khi tiếp nhận năng lượng - thị kiến Ngài trao ban, ta cần chuyển đạt cho người anh người chị trong cộng đoàn yêu thương, có Chúa.

Tha thứ và cầm buộc Chúa nói, không chỉ có nghĩa ta hãy quên đi các lỗi phạm đã vướng mắc, thôi. Nhưng, còn làm hoà một cách thâm sâu với Chúa. Với nhau. Đây, cũng là sứ mạng mới Chúa uỷ thác. Ngõ hầu thu phục mọi người về lại với nhau. Như anh em một nhà. Và, đây còn là mục tiêu mọi người phải đạt: chính là Vương Quốc Nước Trời. Chốn vui sống an hoà ở trần gian. Chính là điều, mà các tông đồ đồng thanh kêu lên: “Chúng tôi đã THẤY Chúa.” (Mt 28: 25)

Hãy đặt ngón tay vào đây, và xem tay của Thầy. Tô-ma thánh nhân đã làm như thế. Và, ông THẤY được Bình An. Ông bèn thưa: “Lạy Chúa của con!”. Và, Chúa cũng tiếp lời: “Phúc cho ai chẳng được THẤY, nhưng vẫn tin!” Lời vàng tựa hiến chương đây, Chúa không chỉ chuyển đến cho riêng mình Tô-ma, mà thôi. Nhưng, cho tất cả những người chưa BIẾT Ngài, vào độ trước biến cố Phục Sinh. Và cũng từ biến cố Phục Sinh, dân con đồ đệ đã nhận BIẾT Chúa, bằng niềm tin – yêu. Tin rằng Thầy sẽ ở lại mãi mãi. Với mọi người. Qua việc ta làm. Bởi, Ngài là Bình An và An vui đích thực.

Trong bối cảnh an bình như thế, Hội Thánh Chúa đã được gầy dựng. Gầy dựng lúc này, để rồi ta cử hành ngày sinh của Hội thánh vào lễ Ngũ Tuần, sắp tới sau. Nhưng, ngay từ giờ phút ấy, đàn con Hội thánh Chúa đã quây quần tụ hợp, thực hiện lời Chúa trăn trối, cả vào trước lúc Chúa Phục Sinh. Quây quần, như bài đọc hôm nay ghi rõ:“Tín hữu ân cần nghe Tông đồ giảng, luôn hiệp thông tham dự lễ bẻ bánh và không ngừng nguyện cầu.” (Cv 2: 42)

Quây quần hiệp thông, để ta có thể cùng sống với Đức Kitô. Trong Đức Kitô. Bằng sinh hoạt cụ thể, ở đời thường. Tin tưởng và lắng nghe lời dạy của Hội thánh; ta luôn nối kết các người anh em trong cộng đoàn. Quây quần hiệp thông, để ta cùng tham dự lễ bẻ bánh. Và nguyện cầu. Đó, chính là huyết mạch đời sống của Hội thánh. Bây giờ, và lúc xưa.

San sẻ và cùng sống với Hội thánh, tín hữu Đức Kitô vẫn tuân theo lời giảng dạy từ các bậc thày trong Đạo. Đây mới là truyền thống liên kết, hết mọi thành viên chúng ta. Truyền thống liên kết, ngang qua chứng từ tiên khởi được duy trì nơi Tân Ước. Liên kết, cả vào bối cảnh hiệp thông được duy trì, từ nhiều thế kỷ. Truyền thống Hội thánh, vẫn được thể hiện qua cách sống của người tín hữu. Sống theo lời dạy của Đức Chúa. Qua nhiều thế hệ.

San sẻ và cùng sống với Hội thánh, còn là thể hiện tình thân thương anh em mà tiếng Hy lạp gọi là “koinonia”, tức sống tình đệ huynh của người con cùng nhà. Sống tình huynh đệ, là sống Lời Chúa qua căn dặn: “Bằng vào lối sống này mà mọi người biết đưọc các con là môn để của Thầy, là các con hãy yêu thương lẫn nhau như anh em”.(Ga 13: 35).

Yêu thương nhau theo cách thế của anh em, ta mới chứng minh cho mọi người biết được quyền năng của Đức Kitô, trong đời sống. Có yêu thương nhau, ta mới lôi kéo được mọi người về với cùng một niềm tin và niềm yêu. Bởi, ta chỉ có thể đến với Chúa, qua các người anh em của ta, thôi.

Dự tiệc Bẻ bánh, nay gọi là Tiệc Thánh Thể, (hay Tiệc agapè của Lòng Mến), là sinh hoạt trọng tâm của cộng đoàn tín hữu Đức Kitô. Có tham dự Tiệc của Lòng Mến, ta mới xác minh được là mình đã quyết tâm sống hiệp thông san sẻ, trong yêu thương. Đùm bọc. Sống như con cùng một Cha. Như tông đồ đích thực của Thầy Chí Thánh.

Sống nguyện cầu, là cuộc sống của mỗi thành viên Hội thánh, trong mọi ngày. Sống không cho riêng mình. Nhưng quan tâm đến nhau. Nguyện cầu cho nhau. Cả trong nguyện đường. Lẫn ngoài phố chợ. Sống trong nguyện cầu, là lối sống đã và đang được đào sâu, mở rộng từ nhiều thế kỷ qua. Sống trong nguyện cầu, không chỉ đơn giản có ca hát, hoặc đọc kinh. Nhưng, còn chiêm nghiệm hoặc có kinh nghiệm niệm suy, thương mến. Sống nguyện cầu, là việc cần thiết cho mọi kẻ tin. Không nguyện cầu, không thể bảo mình là đồ đệ theo Chúa, rất chính danh.

Tóm lại, khi đã quyết tâm sống nguyện cầu với cộng đoàn, ta mới được bảo đảm như thánh Phê-rô viết trong bài đọc: “Nhờ ngài, ta được tái sinh để nhận lĩnh một hy vọng sống và lời hứa ban cho gia tài không hư nát, không vẩn đục và tàn phai… để rồi, nhờ vào lòng tin, ta được Thiên Chúa quyền năng gìn giữ đến đời sau hết.” (1P 1: 4)

Và khi sống hiệp thông tình cộng đoàn, ta còn được bảo đảm khác: “Anh em được chan chứa niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người.” (1P 1: 8-9).

Thành quả niềm tin Ơn cứu độ, nghe như khuôn sáo, nói nhiều lần. Nhưng kỳ thực, lời của thánh Phê-rô đã trở thành niềm mơ ước ta khao khát từ lâu. Ước mơ và khao khát, như con người tổng thể nằm gọn trong vòng tay yêu thương của Đức Chúa.

Lm Frank Doyle sj

Mai Tá lược dịch

Wednesday 20 April 2011

Lm Nguyễn Thế Thuấn CSsR: Sách Thánh và Mạc Khải Cứu Rỗi (tiếp theo)


Lược sử các sách Cựu Ước

Thời Hy Lạp

-Thời này không có trước tác hay văn kiện lịch sử về đương thời đó (trong lịch sử Israel, thời này thiếu tài liệu lịch sử hơn cả. Chúng ta không biết đích xác nước Yuđê, có những biến chuyển nào).

-San định lần cuối cùng về sưu tập lịch sử gồm có các sách: 1-2Ký sự, Ezra, Nêhêmya. Tác giả thiên về lễ bái tế tự.

-Các truyện đạo đức:

Tôbya (được viết giữa người Do thái kiều)

Esther (bản Hy Lạp có tán rộng hơn nơi nhiều khúc).

-Văn chương khôn ngoan:

sách Giảng viên (cũng gọi theo tiếng Hipri là Qohelet) những suy tư có vẻ triết lý về vấn đề hạnh phúc.

sách huấn ca (cũng gọi là sách BenSira, Siracide: gồm có những châm ngôn về đời sống, viết vào lối -180).

-Văn chương Khải huyền: Zakarya 9-14

Ysaya 24-27?

Từ thời Macabê về sau (-167…)

-Lịch sử:

Sách 1Macabê thuật lại các sự kiện xảy ra giữa 175-134 (trình thuật có giá trị lịch sử, nhưng cũng có những đoạn phóng đại tán rộng).

Sách 2 Macabê thuật lại các biến cố xảy ra trong -187-160: trình thuật thiên về dạy dỗ đạo đức hơn.

-Truyện đạo đức sách Yuđita (viết sau -100), Thiên Chúa quan phòng cứu Israel bằng những phương thế yếu đuối.

-Văn chương Khôn ngoan:

Sách Khôn ngoan (một trước tác minh giáo phát xuất tự Do thái kiều Ai cập (lối năm -50).

Sách Barúc (gồm có một Ai ca và suy tư về sự khôn ngoan).

-Văn chương Khải huyền: Đaniel được soạn xong trước -163 (nhưng trong đó lại có những truyền thống xưa về Đaniel).

Một cái nhìn tổng quát về việc cấu thành sách thánh đó cho ta thấy cái đặc sắc của Kinh thánh: yếu tố tôn giáo ngoi lên tự cái chất nóng hổi của sinh hoạt nhân loại ngang qua nhiều giai đoạn. Mục đích hướng tôn giáo của Kinh thánh dẫu định nghĩa thế nào đi nữa, thì có một điều chắc là chúng ta phải tìm ra chính trong việc Kinh thánh trình bày sinh hoạt nhân loại và phàm tục như có thực trong lịch sử. Nói được Kinh thánh không thoát tục tí nào. Đàng khác, ta thấy được Kinh thánh gồm rất nhiều loại sách, cũng như nhiều loại văn. Nhưng điều làm cho Kinh thánh tất cả có một sự duy nhất đích thực là vì toàn thể các yếu tố khác nhau đó được kết lại xung quanh một cái nòng, tức là trình thuật lịch sử: một sinh hoạt của một nhóm người ngang qua gần hai ngàn năm. Các phần Kinh thánh khác cũng hướng theo cái trình tự lịch sử đó và phải được hiểu theo khung cảnh lịch sử.

Bây giờ nhìn chung các sách tất cả, thì ta thấy được không có sách nào được viết xong trước thế kỷ 8 (trước kỷ nguyên). Trườc thời đó thì có những truyền khẩu, hay văn kiện này khác, chứ một quyển sách như có trong qui điển hiện tại đều xuất hiện sau các tiên tri mà chúng ta còn có lời sấm (Amos, Hôsê, Ysaya, Mica) và như vậy các sách đều mang ảnh hưởng, dấu tích của các tiên tri. Đạo Môsê từ đều được hiểu theo nhỡn giới của Lời Chúa do các tiên tri là phát ngôn nhân. Và đạo Do thái muộn thời được hướng dẫn bởi Lời Thiên Chúa nơi các tiên tri; do những người thuộc hàng môn đệ các ngài, chính họ kết thúc Qui điển theo tinh thần các tiên tri. Nhưng các tiên tri đã gặp một tiên tri có trước họ: Môsê, vị sáng lập Dân sống trong Giao ước.

Cái cốt tủy của Kinh thánh Cựu Ước là:

Giao Ước bỏ ngỏ cho sự can thiệp của Thiên Chúa do

LỜI THIÊN CHÚA NƠI CÁC TIÊN TRI

Lm Nguyễn Thế Thiuấn, CSsR

(trích Tài liệu giảng dạy, phổ biến nội bộ)

Monday 18 April 2011

Lm Nguyễn Hồ Đỉnh CSsR: Lời Chúc Phục Sinh - Lời Chúc Vượt Qua


Mùa xuân tại Pháp năm nay bừng nở sau trận tuyết rơi và giá lạnh bất ngờ tràn ngập hai tuần cuối đông… Lễ Phục Sinh Công giáo trùng hợp với những ngày xuân bừng nở này.

Cũng như mùa xuân, diệu nhiệm Phục Sinh không phải là sở hữu của một tôn giáo, một quyền lực, một con người nào… Đó là Ơn Trời dành cho sự sống: Sự sống mạnh hơn sự chết.

Ơn lạ này lại càng rõ rệt trong đời sống tinh thần của mỗi con người. Bác sĩ Simone Pacot, chuyên trị bệnh tâm thần, đã viết về hiệu lực của xác tín này:

“Từ khi tôi biết “Phục Sinh” có nghĩa là “Vượt qua”, từ khi tôi hiểu rằng ai cũng có thể tái tạo đời mình từ quá khứ, -dù quá khứ này ra sao đi nữa- thì tôi được vững tâm hoàn toàn…”

Diệu nhiệm Phục sinh là ân lực làm cho con người có thể “vượt qua” từ lãnh địa ảm đạm của tử khí đến thế giới sự sống mới.

Nếu diệu nhiệm Phục sinh là Ơn Trời cho mỗi con người thì diệu nhiệm này là càng là sinh khí căn bản cho người mang niềm tin Kitô-giáo – đối đầu với tang thương và tàn phá tận cùng của sự chết. Mục sư Dietrich Bonhoeffer, người từng bị Đức quốc xã bắt giam và hành quyết năm 1944 –đã cảm nhận qua chính bản thân mình sức mạnh kỳ lạ của mầu nhiệm vượt qua:

“Với Đức Kitô, Niềm vui của Thiên Chúa đã trải qua xơ xác nơi máng cỏ và thàm thương trên thập giá. Vì thế niềm vui này không còn gì triệt hạ được nữa, không còn gì ngăn cản được nữa. Niềm vui này không từ chối thảm thương, niềm vui này chìm giữa thảm thương, nhưng chính giữa sâu thẳm tang thương này, niềm vui lại tìm thấy và gặp được Thiên Chúa.”

Và, Thiên Chúa của người Kitô hữu vẫn luôn tự định nghĩa mình là Yêu thương Sự Sống. Yêu thương luôn gắn liền với hiến ban sự sống:

“Không có lòng mến nào lớn hơn là thí mạng sống mình vì bạn hữu.” (Yoan 15: 13)

Yêu thương dẫn đến sung mãn tận cùng trong Thiên Chúa:

“Thiên Chúa là lòng mến, và ai lưu lại trong lòng mến, thì lưu lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa lưu lại trong người ấy.” (1 Yoan 4: 16)

Yêu thương tận hiến cả đời mình cho Thiên Chúa và con người như Đức Kitô đã sống, thì không còn quyền lực gì có thể cất cướp được đời sống này. Ai cho thì không mất.

“Không ai cất mạng sống Ta được; nhưng chính Ta tự mình thí mạng sống Ta.”

(Yoan 10: 18)

Đức Mahatma Gandhi, người đã sống rất gần với Tinh Mừng Kitô giáo, vẫn còn để lại cho khách hành hương đến viếng tượng đài mình ở New Delhi lời nhắn nhủ minh bạch này:

“Hãy gợi lại diện mạo một người bần hàn và tất bạt nhất bạn đã gặp. Bạn sắp bước thêm bước nữa trên đường, hãy tự hỏi bước sắp tới của bạn có mang lại lợi ích gì cho người ấy không (…) có giúp cho người ấy tìm được tính tự chủ và tinh thần trách nhiệm không… giữa cả hàng triệu người đang đau khổ vì đói khát của nuôi thể xác và tinh thần…

Thế đó, bạn sẽ thấy tan biến đi trong bạn mọi nghi ngờ và lo âu vị kỷ.”

Mỗi ngày –dù trong môi trường và hoàn cảnh nào- vẫn có sức vượt từ nghi ngờ, sợ sệt, tù hãm trong chính mình…- để bước tới sự sống và hoà mình làm lớn thêm sự sống: đó chính là sống diệu nhiệm Phục Sinh. Cầu chúc bạn có được những bước sống này!

Lm Nguyễn Hồ Đỉnh, CSsR – Phục Sinh 2004

Friday 15 April 2011

Lm Frank Doyle sj: “Khơi kỷ niệm tìm hương thơm mùa cũ”

Trình thuật ghi hôm nay, diễn tả tình thương Chúa gửi đến với mọi người con yêu dấu, ở trần gian. Tình thương đó, là đặc ân cứu độ ta có được qua mầu nhiệm thống khổ. Qua nỗi chết và sự phục sinh của Đức Chúa. Phục sinh cứu độ, đã giải thoát mọi người. Giải thoát chúng ta.


Qua cử hành tuần lễ thánh, Giáo Hội không chỉ “khơi kỷ niệm” cứu độ Ngài thực hiện, thôi. Nhưng, còn giúp ta đồng hành với Chúa. Đồng hành để ta cùng vào quỹ đạo tình thương. Vào cuộc sống. Ở nơi đó, có tình tự bi-ai, sầu-buồn ta từng trải trong cuộc sống. Sống với Chúa. Với mọi người.


Phụng vụ hôm nay, trổi bật lên hai sự kiện đan kết nhau trong cùng một nghi thức. Phần đầu nghi thức, cử hành việc Chúa chiến thắng nỗi sầu-buồn, với không khí tưng bừng ngày mừng lễ. Qua cử hành nghi thức, ta sẽ cùng với Đức Kitô tay cầm tàu lá, miệng hát vang rền lời tung hô chúc tụng. Và, hiên ngang tiến vào đền thánh Giê-ru-sa-lem. Đầu cao mắt sáng, nhưng không cao ngạo như vua quan lãnh chúa, ở ngoài đời. Hiên ngang vào cung điện bàn thờ, linh mục chủ tế mặc hồng bào khởi đầu cuộc khổ nạn xưa, Chúa vui nhận.


Khổ nạn Chúa vui nhận, gồm hai yếu tố đích thực. Thứ nhất: vào giai đoạn đầu tiến trình Vượt Qua, tình hình ở Do Thái rất sôi sục. Nhà cầm quyền khi ấy, rất lo ngại về một nhen nhúm nổi dậy và kình chống khởi từ phía người Do Thái, do Đức Giê-su khởi xướng. Vốn những lo ngại, họ đành nhúng tay vào lĩnh vực tôn giáo, cốt trừ khử Đức Chúa khỏi hiện trường chính trị và xã hội để tránh hậu họa. Yếu tố thứ hai, là ý nghĩa của cuộc Vượt Qua mới, tức: công trình cứu độ, Ngài thực hiện ngang qua khổ đau thân xác. Khổ đau, không có nghĩa: Cha để mặc Ngài đi vào chỗ chết. Nhưng, khổ đau ở đây do chính Ngài đã tự ý lĩnh nhận cho đến chết. Hầu thực hiện thánh ý Cha.


Chấp nhận khổ đau, Đức Kitô tỏ bày tình yêu cao độ Ngài phú ban cho mọi người. Con dân yêu quý nơi nhà Đạo, lẫn kẻ thù ở ngoài. Tình thương Ngài ban, là gương sáng Ngài lĩnh nhận từ nơi Cha. Và, chính tình thương yêu cao cả, đã khiến Ngài hy sinh trọn cuộc sống, quyết thực hiện công trình cứu độ, đã đề ra.


Trình thuật khổ đau hôm nay, cho thấy Đức Kitô chấp nhận đặt mình vào hoàn cảnh rất “người”, giống mọi người. Chấp nhận như thế, Ngài đã chuyển tải ý nghĩa của tương quan Ngài vẫn có, đối với ta. Tương quan Ngài có, là thế này: chỉ bằng vào tin-yêu đích thực, ta mới nhận ra việc Chúa làm. Công việc Ngài làm, là biến ý định của Cha thành hiện thực qua kinh nghiệm khổ đau, rất người. Và, bằng vào chết nhục mà người phàm ở dưới thế không thể hình dung. Như, thánh Phao-lô quả quyết: “với người Do Thái, đây là cớ vấp phạm. Với kẻ không tin, đây là điều vô nghĩa lý.”


Trình thuật việc Chúa chấp nhận khổ đau và nỗi chết, là điều rất thích hợp và cũng rất thật. Thật đến như thế, mà nhiều người vẫn không tin. Vì họ cứ biện giải: là Chúa, sao Ngài cứ phải khổ đau? Nhiều người không tin Chúa đau khổ, vì vẫn chối bỏ lời Ngài, trong Tân Ước. Rõ ràng, các thánh sử đã quả quyết: Thiên Chúa hạ giáng làm người, Ngài mặc lấy thân phận và tính chất rất “người”. Vì thế, Ngài chấp nhận khổ đau và nỗi chết, là để hoàn tất công trình Cha giao phó.


Là người, Đức Chúa nhận thức khổ đau hơn bất cứ ai. Đau khổ nhiều, khi đồ đệ bỏ đi để Ngài lại một mình, nơi vườn Dầu sầu thảm. Và, đau khổ đến tột đỉnh, khi Cha dường như cũng làm thinh. Với bản chất rất “người” của Ngài, Đức Giê-su dốc tàn hơi nói lời cuối của Người Con có bản chất rất “Chúa”: “Lạy Cha! Lạy Cha! sao Cha nỡ bỏ con?” (Mc 15: 34). Thốt lên lời cuối, Chúa công khai tỏ bầy một sự thật: nay, đã hoàn tất công trình cứu độ, Cha trao phó.


Mặc lấy tính “người” cho đến chết, Đức Giê-su vẫn có tư cách, quyền uy và thế lực, của người thường. Quyền uy Ngài rất chói sáng, suốt một đời. Chói sáng đến độ, binh đội bắt Ngài, đã phải xử sự cách lạ lùng hệt như kẻ đến để bảo vệ. Và, dù đủ sức phản chống, Ngài vẫn ứng xử đúng theo tư cách của Đấng có uy và có quyền. Quyền uy đến độ, trước mặt quan án rất hùng hổ, Ngài vẫn lặng im không khuất phục. Không bị uy hiếp, lẫn khiếp sợ. Ngược lại, Ngài vẫn nguyện cầu và thứ tha cho kẻ gây sầu, quyết hại Ngài. Cuối cùng, chính lúc Ngài chết đi, là lúc Ngài giúp mọi người được vui sống.


Bài đọc thứ hai, thánh Phao-lô đã viết: “Chúa tự trút bỏ con người” của Ngài, cách hoàn toàn. Trút bỏ như thế, Ngài đã lấp đầy thân mình Ngài bằng Thần Khí của Cha. Trút bỏ như thế, Ngài không còn dính dự vào bất cứ gì. Và, để mặc cho vật chất tất cả trở thành hư vô. Đây chính là điều mà những người không có niềm tin-yêu mãnh liệt, không hiểu thấu.


Ở cuối trình thuật thống khổ, thánh Mát-thêu có ghi: “Đức Giê-su đã trút linh hồn” (Mt 27: 50). Thông thường, đây là lối nói diễn tả việc Ngài thở hơi cuối cùng. Nhưng, trong bối cảnh công trình cứu độ, điều này có nghĩa: sự sống, nỗi khổ và sự chết của Đức Giê-su, hiểu đúng cách, đã chiến thắng và chuyển quyền uy sức mạnh đến với thế giới nhân trần. Quyền uy ở đây, là sức mạnh của Thánh Thần Chúa vốn lấp đầy nơi thân mình Đức Giê-su, nay được chuyển cho hết mọi dân con đi theo Ngài.


Thừa hưởng uy quyền được Chúa ban, đồ đệ chúng ta cũng sẽ trải qua các kinh nghiệm như Thầy từng trải. Nghĩa là: cũng giống Thầy, ta sẽ chứng kiến nỗi khiếp sợ ban đầu. Nhưng, sẽ được tràn đầy quả cảm để không còn hãi sợ nữa. Không sợ, vì đã có niềm vui Thần Khí Chúa ở cùng. Và, dù có bị đưa đẩy vào chốn tù đày có giết chóc có hãm hại, đồ đệ Thầy là chúng ta cũng tồn tại. Sẽ tiếp tục rao truyền Lời Chúa, không khiếp sợ. Và, Sự Thật lâu nay vẫn chứng minh điều này.


Đau khổ và nỗi chết của Đức Giê-su ta mừng kính hôm nay, vẫn không là dấu vết của một gục ngã. Nhưng, chính là sự khải hoàn và chiến thắng như cuộc sống các đấng tử đạo và người chứng của Đức Chúa vẫn xác minh, suốt hơn 2000 năm.


Trong tinh thần háo hức bước vào tuần mừng Chúa chấp nhận khổ nạn, ta cũng đừng quá tập trung vào những sầu buồn khổ đau của Chúa. Bởi, làm như thế, có người lại coi đó như thú đau thương, thích khổ hình. Trong khi, đau thương và khổ hình chỉ đích thực mang nghĩa thích thú, khi chúng soi dọi và dẫn đến khổ đau và sống lại, của Đức Giê-su mà thôi.


Mặt khác, khổ đau con người, tuyệt nhiên không thể mang ý nghĩa của trừng phạt từ Đức Chúa. Thành thử, cũng đừng nên tìm đến khổ đau sầu buồn, để rồi than vãn hoặc công kích. Sự thật thì, khổ đau sầu buồn, vẫn là nguồn gốc dẫn đến mọi tốt lành vì chúng giúp ta trưởng thành hơn. Biết yêu thương, biết chăm sóc và có thiện cảm với những người buồn và khổ. Nói cách khác, khổ đau sầu buồn giúp ta trở nên giống Đức Kitô hơn. Giống, vì nó giúp giải thoát mọi người, trong chúng ta.


Trong ngang theo Chúa chấp nhận sầu buồn, ta ngâm tiếp lời thơ trên, rằng:


“Nghe rất nhẹ mơ hồ như sương phủ Gót nai về ủ rũ dưới thông cao Lại chạnh lòng chợt nhớ đến thu nào Anh gần gũi giữa vòng tay trìu mến”
Thơ Hồ Công Tâm)


Lm Frank Doyle sj
Mai tá lược dịch

Wednesday 13 April 2011

Lm Nguyễn Thế Thuấn CSsR: Sách Thánh và Mạc Khải Cứu Rỗi - Thời Lưu đày

Lược sử các sách Cựu Ước (tiếp theo)

Thời Lưu đày (-587-538)

-Về các sách lịch sử: san định lần cuối cùng các sách Yôsua, Thẩm phán, Sách Các Vua (tất cả được soạn lại theo tinh thần Thứ Luật Thư; nghĩa là: lịch sử tỏ bày những phán xét của Thiên Chúa trên thái độ của dân đối với Giao ước).

-Lề luật: soạn thảo các luật nghi tiết (Êzêkiel 40-48)

-Các tiên tri: Êzêkiel (-593-571) Ysaya II (tức là tác giả vô danh của các lời tiên tri giữ lại trong sách tiên tri Ysaya 40-55; vào lối -540)

-Thánh vịnh: Những thánh vịnh than vãn theo tinh thần Yêrêmya: Thánh vịnh thống hối và khẩn nguyện (như 51 69 74 79 137…). Tại Phalệtin: các Aica (cũng đặt trong các sách Yêrêmya). Thời đế quốc Ba Tư (538-332)

-Tài liệu công văn: những hồ sơ giữ lại trong sách: Ezra (2; 4: 8-22; 5, 6:6, 12; 7: 12-26) Nêhêmya (10: 2-28; 11: 4-25).

-Bút ký của Ezra 7: 27 – 9: 15), của Nêhêmya (Nêhêmya 1:1 – 7:5; 11: 27-43: 13tt). Đó là những tài liệu của người trong cuộc thuật lại các hành vi và cách xử sự của mình).

-Trình thuật: các phần khác của các sách Ezra, Nêhêmya; các đoạn trong Ngũ thư thuộc văn kiện P (Kn 1 5 17; Xh 6; Ds 1-9…).

-Các truyện đạo đức:

Ruth: có nền tảng lịch sử (dòng dõi tổ tiên của Đavít), nhưng truyện được viết ra vì nhỡn giới phổ cập của tôn giáo Israel Luật cấm hôn nhân theo tinh thần Ezra, Nêhêmya quá khắt khe muốn duy trì sự thuần tuý đạo Yavê, nhưng lại sa vào sự hẹp hòi thiển cận trước ý định phổ cập của Thiên Chúa; tác giả lấy gương tổ tiên đã lấy vợ ngoại để dạy là phải châm chước.

Yôna: Những luật cuối cùng của văn kiện P có lẽ các đoạn Lêvi 1-7 11-16)

– San định lần cuối cùng các luật Môsê trong Ngũ thư (Ngũ thư thành hình như hiện tại sau Ezra ít lâu).

-Các tiên tri: Haggai (lối-520) Zacarya (1-8) (-520-518) Abđya (lối -500) Yasaya III (tức là các đoạn Ys 56-66) (lối -500?) Malaki (lối -500?) Yôel (lối -400)

-Thánh vịnh: nhiều Thánh vịnh tạ ơn sau lưu đày (85 126…) Thánh vịnh ca ngợi vương quyền Yavê (93 96-100) Thánh vịnh lịch sử Israel, hay suy nghĩ về đời sống theo tinh thần hiền nhân Israel).

-Diệu ca: thi ca có tính cách trữ tình. Hình thức như có trong qui điển được các nhà chú giải (ít là số đông) hiểu về tình nghĩa Yavê và Israel theo tinh thần các tiên tri Hôsê, Yêrêmya, Êzekiel. Nhưng về do lai và loại văn thì rất tranh luận: có những tác giả hiểu như một tỉ dụ viết ra để nói về duyên tình giữa Thiên Chúa và Israel (nghĩa là Giao Ước giữa Yavê và Israel) và các chi tiết được hiểu theo nghĩa tôn giáo đó. Nhưng một số đông tác giả khác chủ trương các thi ca đó lấy tự những bài phong dao lễ cưới, rồi áp dụng cho Yavê có khi một cách lòng lẻo, vì thế không nên ép gượng từng chi tiết (việc chuyển ý nghĩa được dễ dàng vì sau lưu đày dân không còn hiểu tiếng Hipri nữa, từ bấy giờ người ta phải dịch kinh thánh ra tiếng dân nói là tiếng Aram, những bản dịch đó được gọi là Targum).

-Văn chương khôn ngoan: Yob là một bài ca vàn về bí nhiệm đau khổ. Nhập đề Cách ngôn (1-9) bàn về sự khôn ngoan do tự thiên Chúa.

Lm Nguyễn Thế Thuấn CSsR

trích tài liệu giảng dạy phổ biến nội bộ)

Tuesday 12 April 2011

Lm Richard Leonard sj: Thiên Chúa Đang Ở Xó Nào? Chương 7

Khi giờ của bạn đã điểm, thì giờ của bạn đã điểm, bạn không được thêm một giây nào
cả.

Thiên Chúa không giết bỏ chúng ta.

Chắc là trên trán tôi có khắc hàng chữ kẻ ngoại đạo hay sao mà hễ cứ mỗi lần tôi đi ra các trung tâm thương mại và đang mải miết với công việc của tôi thì y như rằng tôi lại bị níu kéo bởi những anh chị em Ki-tô hữu cực đoan của chúng ta. Thường thì hầu như mỗi bận như vậy, họ đều tiến lại gần tôi và hỏi rằng:

“Chào anh, anh có dâng cuộc đời anh cho Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ của anh chưa?”

“À, nói thật ra thì tôi đã dâng rồi.” “Anh có biết nói nhiều thứ tiếng hay không?” “Tôi biết, nhưng tôi không nói.”

“Anh có biết những đòi hỏi của việc sống theo gương Đức Giê-su hay không?”

“Nghe đây, anh bạn, tôi nghĩ là đức khó nghèo, đức khiết tịnh, và đức vâng lời vì Đức Giê-su suốt cả cuộc đời là một câu trả lời khá là đúng hướng cho anh đó.”

Mặc dù vậy, trong khi nói như trên, tôi nhớ về ngày tuyên khấn của tôi ở Dòng Tên khi một người bạn thân, trong lúc đang nhìn ngắm khung cảnh nơi sắp diễn ra lễ tuyên khấn – khu nhà dòng tráng lệ ở St. Ignatius College, Sydney – đã bảo tôi: “Nếu khó nghèo mà là như vầy, thì tao muốn thấy coi khiết tịnh ra sao.”

Trở lại khu thương mại nơi mà giờ đây tôi đang muốn bắt chuyện với mấy người kia.

“Anh có vui lòng cho tôi hỏi vài câu hay không?”

“Dĩ nhiên rồi.”

“Anh có tin là tất cả mọi chi tiết trong Sách Thánh đều hoàn toàn là sự thật từng li từng chữ theo nghĩa đen hay không?”

“Amen, tin chứ” là câu trả lời người ta thường nói mà không thèm suy nghĩ gì đến câu hỏi.

“Ờ, nếu vậy thì, may ra anh có thể giúp tôi. Thế giới được tạo dựng trong bảy ngày hay chỉ trong một ngày mà thôi – hai chương đầu trong Sáng Thế Ký có hai câu trả lời khác nhau. Sứ thần truyền tin đã đến gặp cô Ma-ri-a hay gặp ông Giu-se? Đức Giê-su đã lên Giê-ru-sa-lem một lần hay nhiều lần? Bài giảng trên núi là ở trên núi hay trên bình nguyên? Có bốn mối phúc thật hay tám mối? Có mười điều răn trong Kinh Lạy Cha, hay chỉ có năm mà thôi? Những lời cuối cùng của Đức Giê-su là gì – trong bốn bộ Tin Mừng có tới ba lời khác nhau? Vào buổi sáng Phục Sinh, Đức Giê-su hiện ra với ông Phê-rô trước, hay hiện ra với bà Ma-ri-a Mác-đa-la trước? Và việc thăng thiên và lễ Hiện Xuống xảy ra vào lúc nào – trong ngày Chúa Nhật Phục Sinh hay bốn mươi ngày sau đó?”

Tới mức này thì thường là người trưởng nhóm đã tiến đến chúng tôi và đề nghị rằng, “thôi anh đi đi bởi vì mình không nên đặt câu hỏi về Lời Chúa, mình chỉ nên sống Lời Chúa thôi.” Và điều đó, gói gọn ghẽ trong một cái vỏ đậu, chính là một trong những vấn đề.

Trong vai trò tín hữu Công Giáo, tạ ơn Chúa, ít nhất là từ thập niên 60, chúng ta đã chính thức không còn đọc các văn bản thánh kinh theo nghĩa đen nữa. Chúng ta không phải là những người cực đoan tin theo từng chữ một trong Sách Thánh. Đó là, cho đến khi ta đọc những đoạn về việc Thiên Chúa biết “từng sợi tóc trên đầu chúng ta” và biết “cả cuộc đời ta từ trước khi lọt lòng mẹ” (Gr 1:5; Gl 1:15-16; Cn 16:33; và Mt 10:30). Và rồi chúng ta trở thành những kẻ cực đoan. Trong hình thức nguyên thủy của chúng, những đoạn này là những ví dụ lâm ly bi đát của thánh kinh về lòng quan tâm chăm sóc của Thiên Chúa cho từng người một. Nhưng ngày nay thì ta không hiểu theo cách như vậy. Các đoạn này được dùng để giải thích ý tưởng là Thiên Chúa biết và định ra những năm, tháng, tuần, ngày, giờ, phút, giây của mỗi cuộc đời.

Mỗi khi đến viện dưỡng lão tôi thường hay được hỏi là “Thưa Cha, sao Chúa vẫn chưa chịu gọi Bà con về?” và tôi muốn trả lời là “vì Bà con vẫn chưa chịu tắt thở.” Nếu dùng các môn thể thao cricket hay baseball làm tỷ dụ, ta có thể nói là “Thôi, Bà con đã có những chặng đường dài tốt đẹp rồi.” Dùng câu này thì khá hợp tình hợp cảnh khi mà người mới qua đời là người đã cao tuổi. Nhưng cũng câu đó, thì hàm ý biết ơn lại hoàn toàn biến mất khi tôi đang an ủi những người cha mẹ vừa mất một đứa con ở bất kỳ độ tuổi nào, nhất là khi đứa bé chết non trong bụng mẹ, hay khi một đứa bé bị chết trong tuổi ấu nhi. Không một người cha người mẹ nào đáng bị trải qua thảm cảnh phải đem chôn đứa con của mình.

Những nỗi đau đớn hằn sâu rõ nét nhất mà tôi từng chứng kiến là khi một đứa trẻ bị mắc bệnh trầm trọng, hay lúc đứa trẻ vừa mới qua đời. Lúc đó cha mẹ đứa trẻ sẽ hỏi một cách đau khổ rằng, “Chúa đang ở cái xó nào?” Và những câu trả lời “Mọi sự đều là mầu nhiệm”, hay “Đường lối của ta không giống đường lối thế gian”, hay “Chắc là Chúa đang cần thêm một thiên thần trên thiên đàng đó thôi” thì không an ủi được gì cả. Tôi không tin là những câu đó đã từng an ủi được ai cả. Tôi có quen biết những bậc cha mẹ có trình độ học vấn cao, những người này đã ngưng sống đời sống đức tin của họ bởi vì không ai có thể giúp họ tìm ra một ý nghĩa hữu lý nào cho cuộc đời và cái chết của con cái họ, ngoài cách bảo họ rằng “Chúng ta sẽ hiểu lý do khi nào lên thiên đàng, khi đó Chúa sẽ lau khô hết những dòng lệ của chúng ta.” Mặc dù chúng ta tin điều đó là đúng, và tin là có một chiều kích huyền bí trong tất cả mọi sự đau khổ, nhưng cách nói cái chết là một mầu nhiệm thì không giải thoát chúng ta khỏi việc áp dụng trí thông minh và khả năng lý luận của mình để đồ đoán những câu trả lời rõ ràng hơn. Và mặc dù một số những phản ứng này có thể là không đưa đến hết tất cả những câu trả lời cho những câu hỏi của ta, nhưng các phản ứng đó vẫn có thể đem lại nhiều an ủi hơn là những sự rập khuôn tầm thường mà hiện tại vẫn hay được dùng làm lời an ủi trong Ki-tô Giáo.

Cũng xin thưa rằng, Thiên Chúa không cần phải có thiên thần trên thiên đàng. Trong khoa thần học chúng ta tin rằng Thiên Chúa là độc lập. Thiên Chúa không cần bất cứ điều chi cả, và vì thế Người không có nhu cầu lấy mạng các trẻ thơ con cái của chúng ta, dù chúng có xinh đẹp ngây thơ như thiên thần hay không. Điều lý thú về Ki-tô Giáo là chúng ta tin rằng Thiên Chúa muốn có chúng ta. Đó là lý do tại sao nhân loại được tạo ra. Tôi giả thiết là, cũng có thể lý luận là Thiên Chúa muốn có một số hữu thể nhân loại nào đó tới mức Thiên Chúa đem họ trở về trời nhanh hơn, sớm hơn, so với tiêu chuẩn của chúng ta. Nhiều Ki-tô hữu thuần thành tin vào điều này, nhưng đây là một câu rất khó mà đem ra nói trước cảnh cha mẹ bị mất con. Cái đấng Thiên Chúa độc tài đó đã trở lại, những gì mà đấng Thiên Chúa đó ước muốn có thể tàn phá cuộc đời chúng ta. Tôi không có vấn đề gì với kiểu nói “chuyến hành trình” rất thường được dùng trong ngôn ngữ tang chế của chúng ta ngày nay, nhưng tôi tránh thật xa những cách nói như “Chúa cất về” hay “Chúa gọi về” mỗi khi có người qua đời. Tôi nghĩ nói như vậy thì không giúp ích được gì vì những cách nói đó có thể làm hạ giá tình yêu và sự thiện hảo của Thiên Chúa. Tại sao Chúa lại muốn “gọi” một em bé hai tuổi về thiên đàng hơn là muốn “để lại” đứa bé trong vòng tay yêu thương của cha mẹ? Và nếu như Thiên Chúa cứ muốn “gọi”, muốn lấy đi những đứa con cái mà ta yêu thương bằng cách làm cho chúng bị chết, vậy thì tại sao Thiên Chúa không gọi luôn những đứa trẻ mà từ lúc còn rất nhỏ tuổi đã bị hành hạ về mặt thể xác hoặc bị xâm phạm tình dục do chính cha mẹ và gia đình tội lỗi của chúng, hay gọi luôn những em bé mồ côi đứng bám vào thành nôi với hai cánh tay giang rộng mà không có ai đến ôm ấp vỗ về hoặc nhận các em làm con nuôi?

Tương phản với điều này, tôi nghĩ là thật vô cùng thích đáng để tin rằng cuộc đời – từ lúc trong lòng mẹ cho đến lúc vào viện dưỡng lão – không phải là một gang tấc thời gian đã được Thiên Chúa định đoạt sẵn từ trước, mà là cơ thể chúng ta sẽ sống cho tới khi nó không còn có thể hoạt động được nữa, vì bất cứ lý do tự nhiên gì hay tai nạn gì. Thiên Chúa không phải là một yếu tố chủ động trong tiến trình này, nhưng, một lần nữa, chịu trách nhiệm trong việc tạo ra loài người chúng ta không có tính trường sinh bất tử. Trong thần học cổ điển, nếu không tin như vậy thì chỉ còn có cách cho rằng chúng ta đã được tạo dựng là một bản thể tâm linh không có thể xác, hay là một thiên thần. Nhưng mà nếu vậy thì tôi sẽ không còn là tôi nữa.

Do đó, khi thể xác chúng ta chết, linh hồn hay tâm linh của chúng ta sẽ bắt đầu chuyến hành trình cuối cùng về nhà Cha. Chúng ta rất nên ngưng lại một chút ở đây để ngẫm nghĩ xem thành phần nào trong bản thể của chúng ta sẽ thực hiện chuyến hành trình này, phần nào sẽ còn tồn tại sau khi ta chết. Rõ ràng là, nếu chúng ta không thể biết rõ là Thiên Chúa có thể đặt vào đâu trong cái thế giới nhiều khi rất ác độc này, thì bản chất của linh hồn cũng là đối tượng của sự suy diễn.

Tuy nhiên, có một điều đáng lưu ý là, trong khi cái khái niệm thiêng liêng về một linh hồn và việc sử dụng khái niệm đó trong ngôn ngữ tôn giáo đã dần dần suy giảm, nhưng thuật ngữ linh hồn vẫn luôn được nhắc tới trong các cuộc đối thoại thông thường. Nhiều người không-tôn-giáo vẫn hay sử dụng cái thuật ngữ nặng tính tôn giáo bậc nhất đó để nói về một người khác. Chúng ta thường được nghe là có những người cô đơn ra sao, buồn khổ ra sao, hay lạc mất hồn phách ra sao. Hay cũng có thể nói rằng ai đó có một “tâm hồn cao đẹp”, hay một khúc nhạc nào đó, một bức tranh nào đó, hay một tác phẩm nghệ thuật nào đó đã “khuấy động hồn tôi”. Chúng ta diễn tả loại nhạc jazz trầm buồn là “chạm thấu tâm hồn”, và khi có ai gặp nạn cần cấp cứu thì chúng ta vẫn kêu cứu bằng tín hiệu SOS – “save our souls – xin cứu linh hồn chúng tôi”. Những cách sử dụng thuật ngữ này đã khẳng định giáo huấn của thánh Thomas Aquinas là linh hồn làm nên bản tính loài người của chúng ta và phân biệt chúng ta với những loài động vật khác. Hầu hết các tôn giáo lớn trên thế giới đều tin vào linh hồn hay một khái niệm tương tự – một điều gì đó tồn tại chứ không bị tiêu tan như thân xác khi chết.

Tôi đã đạt tới một quan niệm là, bất kể những tính chất gì khác mà linh hồn có thể có, ký ức là một thành phần chặt chẽ của linh hồn. Ký ức của chúng ta tồn tại sau khi chết.

Tôi đã từng làm nhiều lễ an táng cho những người mắc bệnh Alzheimer (một loại bệnh mất trí nhớ của người cao niên). Đó là những đám tang rất buồn bã vì gia đình người chết hầu như đều nói rằng họ đã “mất” người thân yêu từ nhiều tháng hay nhiều năm trước chứ không phải đợi đến lúc đó. Tại sao? Bởi vì người thân yêu của họ đã dần dần, dần dần không thể nhớ được ai hay không thể nhớ điều chi cả. Chúng ta tin vào việc chăm sóc cho thân xác con người từ lúc còn trong lòng mẹ cho đến lúc xuống đáy mồ bởi vì chúng ta tin rằng phẩm giá con người phải luôn luôn được tôn trọng. Ngày nay có những giả thuyết cho rằng thậm chí những ký ức về hoàn cảnh khi ta được thụ thai hay những ký ức lúc ta chào đời cũng có thể có ảnh hưởng đến cách sống của chúng ta sau này. Cũng rõ ràng là ngay cả khi người ta trông dường như là bị mất trí nhớ, hay đang bị hôn mê bất tỉnh, người ta vẫn có thể nhận biết được một số sự việc trong tiềm thức sâu thẳm của họ. Chẳng hạn như, tôi vô cùng ngạc nhiên khi những người mắc bệnh Alzheimer không thể nhớ ra họ là ai hay họ đang ở đâu, nhưng vẫn có khả năng kiến tạo những câu nói hoàn toàn đúng văn phạm bằng tiếng mẹ đẻ của họ, và có khi bằng cả những ngôn ngữ khác mà họ đã học được trong đời. Ngôn ngữ là một sự vận dụng trí nhớ sâu sắc, ngay cả khi ý nghĩa của những câu nói đó có thể rất là khó hiểu.

Ký ức, như một trong những yếu tố cấu tạo thành linh hồn tôi, có nghĩa là đến khi tôi gặp Thiên Chúa diện đối diện, tôi sẽ nhớ ra tôi là ai và tôi đã sống như thế nào, và Thiên Chúa sẽ nhận ra tôi. Đó là cũng là một niềm an ủi cho chúng ta khi nghĩ rằng chúng ta có thể sẽ lại được đoàn tụ với những người lìa đời trước chúng ta mà ta đã từng yêu thương ở trần gian, bởi vì chúng ta sẽ nhớ ra và sẽ nhận ra nhau.

Còn về việc thế giới ở đời sau sẽ như thế nào, nếu như tôi đã can đảm đến mức dám suy luận về việc giữ vững đức tin khi đối diện với đau khổ, và về bản chất của một linh hồn, thì tôi cũng sẽ đánh liều mà suy luận luôn về ba điều của ngày sau cuối.

Cách nay không lâu, Đức Giáo Hoàng Benedict XVI đã gây ngạc nhiên cho một số người khi đưa ra ý kiến là thiên đàng, địa ngục, và luyện ngục có thể không phải là những nơi chốn mà ta trải qua thời gian, nhưng có thể là những cuộc trải nghiệm mà ta trải qua hay vượt qua. Tôi nghĩ Đức Giáo Hoàng nói đúng, không những chỉ vì thời gian và không gian là các yếu tố của thế giới kém hoàn hảo này, chứ không phải của thế giới ở đời sau, mà còn vì điều này mở ra những ý tưởng thú vị về việc những cuộc trải nghiệm đó là như thế nào, và truyền thống Công Giáo thật phong phú ra sao trong vấn đề này.

Khi tôi nghĩ về cuộc sống đời sau có thể sẽ như thế nào, tôi liên tưởng đến dụ ngôn tuyệt vời về lòng nhân hậu của Thiên Chúa trong Luca 15:11-24, dụ ngôn Người Con Hoang Đàng. Đó là một đứa con trai người Do-thái đã phạm hai trong số những tội nặng nhất mà nó có thể phạm: nó phung phá tan hoang phần gia tài được thừa hưởng từ tổ tiên, rồi lâm vào cảnh túng thiếu khốn cùng đến nỗi muốn ăn cả những thứ heo ăn. Rồi nó quyết định trở về nhà mà tạ lỗi với cha mình. Tôi nghĩ rằng chuyến trở về nhà đó cũng giống như cái chết của tất cả chúng ta – chuyến hành trình cuối cùng. Hình ảnh này được gợi lên thật rõ nét trong nghi thức rước Mình Thánh Chúa lần sau hết dành cho những người đang hấp hối, được gọi là Viaticum, mà theo nghĩa đen chính là của ăn đàng – lương thực cho cuộc hành trình.

Trở lại câu chuyện dụ ngôn, người cha ra ngõ trông ngóng suốt cả ngày, và mỗi ngày đều như vậy, để mong thấy bất cứ dấu hiệu gì là đứa con đã trở về. Tôi nghĩ điểm rất đáng lưu ý ở đây là người cha đã không đi tìm con và đã không nắm đầu nó mà lôi về nhà. Đứa con phải tự mình bước trên con đường trở về nhà, cũng tương tự như những gì sẽ diễn ra khi chúng ta qua đời. Chúng ta bắt đầu chuyến hành trình cuối cùng về nhà. Và khi người cha vô cùng nhân hậu này thấy đứa con của mình, ông vội vã chạy đến, ôm hôn nó, và ra lệnh dọn tiệc mừng nó trở về, mà tất cả những việc này diễn ra ngay cả trước khi đứa con kịp nói xong câu tạ tội mà nó đã nhẩm đi nhẩm lại trong đầu. Đó chắc chắn phải là thiên đàng. Đối với một số người đã cố gắng hết sức mình, mặc dù có khi thất bại, nhưng ít nhất chúng ta cũng biết giữ những điều đúng đắn căn bản, thì Thiên Chúa – đấng biết rõ tim ta và đã đồng hành với ta khi ta đang lê bước dưới những gánh nặng khó khăn trong cuộc đời – thậm chí cũng không cần tới một lời tạ tội. Chúng ta được chào đón về lại nhà.

Tuy nhiên, đối với một số người khác, cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa có thể sẽ rất đau đớn cho chính người đó bởi vì, như tôi đã trình bày trong quyển sách này, Thiên Chúa rất xem trọng những chọn lựa tự do của chúng ta. Vì vậy khi Người Cha Nhân Hậu thấy bóng dáng một số người trong chúng ta, Người sẽ vội vã chạy đến để gặp chúng ta, nhưng khi chúng ta được đối diện với ngay chính tình yêu, thì chúng ta sẽ nhớ lại những lần mà chúng ta đã tự do và cố tình có những hành động hủy diệt đối với chính bản thân mình, với người khác, hay với thế giới. Vào thời khắc đó, chúng ta sẽ được cho phép để nói cho xong câu tạ tội đã được nhẩm đi nhẩm lại, mà cầu xin, và quả thật trong một vài trường hợp, mà khẩn khoản nài van sự tha thứ. Chúng ta sẽ phải trả giá thật đắt cho những gì mình đã phạm, bởi vì đó sẽ là lúc thật quyết liệt, và vì Thiên Chúa cũng phải trả giá khi tha thứ cho chúng ta. Nhưng bởi vì Đức Chúa Cha là đấng đầy lòng nhân hậu và đầy lòng xót thương, nên chúng ta sẽ được tẩy rửa, hay thanh luyện, trong tình yêu. Những điểm tương đồng với cách lập luận này cũng được thấy trong lời Đức Giáo Hoàng Benedict: “Ngày nay chúng ta cứ quen với lối suy nghĩ là: Tội lỗi là cái gì chứ? Thiên Chúa vô cùng cao cả, Người thấu hiểu chúng ta, cho nên tội lỗi không là gì đáng kể cả, cuối cùng thì Thiên Chúa cũng sẽ tha thứ cho hết tất cả mọi người ... Đó là một niềm hy vọng tốt đẹp. Nhưng cũng có công lý, và cũng có sự kết tội. Những ai đã từng gây tổn hại cho người khác hay cho quả đất thì không thể được lập tức ngồi ngay vào bàn tiệc của Thiên Chúa chung với những nạn nhân của họ.”

Sau hết, tôi nghĩ có thể một số người trong chúng ta trong chuyến hành trình về lại nhà, Đức Chúa Cha sẽ vội vã chạy đến gặp chúng ta, nhưng khi chúng ta đối diện với ngay chính tình yêu, ta sẽ lặp lại điều mà ta đã tự do và cố ý chọn lựa để làm trong suốt cả đời ta – ta sẽ từ chối tình yêu của Thiên Chúa và sẽ ngoảnh mặt bỏ đi – đó là tội trọng nhất trong tất cả mọi tội lỗi, tội mà rõ ràng là phản ánh cách ta đã sống cuộc đời trần gian của mình. Đó chắc chắn phải là địa ngục – vực thẳm – khi đã thấy dung nhan Thiên Chúa, của chính tình yêu, mà lại ngoảnh mặt bỏ đi bởi vì chúng ta đã bao giờ cũng ngoảnh mặt bỏ đi. Và Đức Chúa Cha sẽ đau lòng mà chấp nhận sự lựa chọn của chúng ta, ngay cả khi điều lựa chọn đó là từ chối tình yêu của Người. Như Đức Giáo Hoàng nói: “... cuộc phán xét sau cùng của Thiên Chúa chính là điều sẽ bảo đảm công lý. ... Chúng ta phải đặc biệt nhấn mạnh rằng tội lỗi có khả năng hủy diệt chính người phạm tội, và vì thế cũng hủy diệt những phần khác trong thế giới.” Nhưng cũng như đức giáo hoàng, tôi không cho rằng có đông người trong nhóm cuối cùng này. “Có thể là không có quá nhiều người đã hoàn toàn tự hủy diệt mình như vậy, những người vĩnh viễn không thể hoán cải, không còn bất cứ chút yếu tố nào để tình yêu của Thiên Chúa có thể ngự vào, không còn có một chút khả năng nào để yêu thương. Đó sẽ là địa ngục.”

Đây là lý do tại sao tôi không tin là Thiên Chúa giết bỏ chúng ta, mà tin là dù cho sự chết có đau lòng cách mấy, chúng ta biết rằng ta sẽ gặp lại anh chị em của mình, và tin là theo niềm hy vọng Ki-tô Giáo thì cuộc chia ly của chúng ta không nhất thiết phải là một sự “vĩnh biệt”, mà là một sự “hẹn gặp lại ngày sau”.

Lm Richard Leonard sj
Bản tiếng Việt: Cecilia Nguyễn Thị Mỹ Hạnh

Saturday 9 April 2011

Lm Richard Leonard sj: Hành trình đi Đạo rất Phục Sinh


Hành trình đi Đạo trải dài qua năm tháng, gồm những Tin và Yêu. Hành trình khởi đầu bằng nghi thức thanh tẩy. Tiếp nối bằng những giờ phút khổ đau, chết chóc, có mộ phần. Để rồi, kết thúc vươn mình trỗi dậy với ánh sáng Phục Sinh. Qua thanh tẩy –để người lớn cũng như con trẻ sớm trở nên người mới- động tác thanh tẩy dầm mình lên xuống khỏi mặt nước những 3 lần, là giây phút quan trọng và xúc động nhất đối với người dự tòng. Là chứng nhân, ta nối kết động tác nhô lên thụp xuống nước với hình ảnh nhiệm tích Ba Ngôi Đức Chúa. Điều này quả cũng đúng. Nhưng, nhớ lại thuở ban sơ, Hội thánh liên kết con số “3” của nghi thức thanh tẩy với việc Yêsu Đức Chúa ngủ yên “3” ngày nơi phần mộ. Đây là một trong các lý do mà, hôm nay, ứng viên gia nhập Hội thánh được khuyến khích dầm mình dưới nước lâu hơn, mỗi khi ta cử hành bí tích thanh tẩy theo hình thức này.

Động tác dội nước lên đầu người dự tòng không diễn tả trọn vẹn chất bi ai/kịch tính mà nghi thức thanh tẩy muốn biểu lộ. Tuy nhiên, mỗi khi người dự tòng làm động tác hít hơi cho đầy phổi, rồi sụp xuống/ngóc đầu lên những “3” lần liên tục, chúng ta suy ra tình huống tương tự giữa việc Yêsu Đức Chúa nghỉ yên trong mồ với hình ảnh dân/con cùng trỗi dậy với Ngài, mang theo cuộc sống mới tràn đầy nghị lực.

Mùa Chay mang nguồn gốc cổ xưa từ thế kỷ thứ ba ở Ai Cập. Khi ấy, người người tưởng nhớ hạn kỳ 40 ngày đêm Yêsu Đức Chúa trải qua nơi sa mạc. Kịp đến thế kỷ thứ tư, 40 ngày gian lao kia được đưa vào niên lịch phụng vụ như giai đọan cuối để các ứng viên chịu thanh tẩy kịp kết thúc hành trình vào dịp Phục Sinh. Mãi đến thế kỷ thứ 5, cả nghi thức xám hối lẫn thanh tẩy được đưa chung vào mùa lễ để cộng đòan tín hữu giữ mãi đến ngày nay.

Cụm từ Mùa Chay xuất xứ từ tiếng Anh cổ Lencten mang ý nghĩa của mùa Xuân nở rộ nhằm nhắc nhở kẻ tin vào Đức Chúa sống ở nửa phần đầu phía Bắc địa cầu, mùa lễ được nối kết với tình trạng thiên nhiên trỗi dậy sau thời gian dài ngủ yên vào mùa đông lạnh. Nói cho cùng, Mùa Chay còn là thời gian để ta bừng tỉnh dậy chứng kiến môi trường ngập tràn ánh sáng và sức sống chan hòa của Đức Kitô.

Bẵng qua nhiều thế kỷ, Hội thánh có khuynh hướng tập trung vào ý nghĩa xám hối hơn là thanh tẩy. Trong khi đó, Công Đồng Vatican II đã về với cội nguồn xưa thời của mùa lễ nay được tái tục qua nghi thức gia nhập cộng đoàn các kẻ tin vào Đức Kitô nơi người trưởng thành. Từ đó, ta thấy sợi giây nối kết giữa hành vi hối cải và nỗ lực quay hướng trở về với Yêsu Kitô qua lời hứa lĩnh nhận nhiệm tích thanh tẩy này vào nhiều năm trước.

Với Chúa nhật cuối Chay, câu chuyện của Lazarô đưa chúng ta về với suy tư về thứ mộ phần nơi ta ẩn mình trong đó; về cuộc sống nơi đó ta được yêu cầu gia nhập. Thần tính ma mãnh vẫn kéo dụ phần đông nhiều người trong chúng ta vào một hình thức sống bí hiểm. Có thể là thứ bí ẩn mà ta chẳng hề bộc lộ. Cũng có thể là những lỗi phạm mà ta chẳng khi nào xưng thú; hoặc những ký ức nào đó mà ta muốn chôn vùi. Và quên đi. Tệ hại hơn nữa, cũng có thể là một lối sống hoặc kiểu cách hành xử thiếu đạo đức/chức năng mà ta quyết ruỗi bỏ từ nay cho đến cuối cuộc đời. Cũng có thể là ta còn dối mình mà biện luận rằng: ấy đó, chuyện bình thường; hoặc: ôi ! không sao một chuyện “không tồi”.

Các mộ phần ở trên đều có nét na ná, tương tự. Nhìn vẻ mặt bên ngoài, xem thì nhỏ bé. Nhưng nếu hành trang ra đi với những bí ẩn của mình, thì ta sẽ càng vùi sâu trong đó. Sẽ xảy đến tình huống ganh tuông bảo vệ cửa mộ. Sẽ có cố gắng để bảo mồ mả ẩn bí. Và, cũng sẽ có cảm giác tủi hổ nếu ai đó tìm cách lăn đá mở cửa mồ để rồi những thấy mọi xấu xa bầy hầy bên trong.

Với Chúa nhật hôm nay, Yêsu Đức Chúa đang đứng nơi cửa mồ mỗi người chúng ta và mời gọi ta “hãy ra khỏi mồ!” Chúng ta được yêu cầu triệt hạ tính đớn hèn mà ta hằng chôn vùi đời mình với mọi bí ẩn hiểm hóc. Hãy bước ra khỏi mồ tức là bước ra khỏi tình trạng nhục nhã tủi hổ. Hãy ra khỏi mồ để mà ôm lấy quyết tâm hối lỗi. Để định rõ được cái giá phải trả; hầu ta có thể sống trung thực với những gì tốt đẹp trong tâm nội. Và, ta cũng được mời gọi nhận biết ánh sáng chan hòa sự sống mới của Đức Kitô. Thứ ánh sáng đang chữa lành và tha thứ mọi suy yếu. Ngã quỵ. Chẳng ai dám tự hào cho rằng hành trình ở trên quả thật giản đơn. Nhưng đây mới là ý nghĩa đích thực của Chay Mùa Tịnh Hối: một hành trình trải dài từ mộ phần chôn giấu cái chết đặc thù của mỗi người. Hành trình xuôi ngược/dọc ngang trôi qua mọi cuộc cải hối; để rồi có được một cuộc sống mới vào ngày Đức Chúa Phục Sinh. Hôm nay, chúng ta cầu và mong cho Tiệc Thánh Thể giúp ta thấy được là Đức Chúa đang đứng bên mộ phần của ta. Ngài nhẹ nhàng cất tiếng gọi ta bằng tên tục và bảo: “Hãy ra khỏi mộ!”. Cầu và mong sao khi nghe tiếng Ngài gọi và bảo, ta cởi bỏ được mọi trói buộc và thanh thản ra đi. Không vướng vất chuyện gì.

Lm Richard leonard sj

Bản Việt Ngữ: MaiTá