Thursday 27 August 2009

ALLÉLUIA Nhạc Vào Đời

Phải nói rằng từ năm 1963 đến năm 1965, một biến cố quan trọng nhất và vĩ đại nhất đã xẩy ra trong lịch sử Giáo Hội vào thế kỷ 20 : Công Đồng Vaticanô II đã diễn ra. Biến cố này mở ra một khung trời mới, một thay đổi mới, rộng và sâu sắc trong toàn thể Giáo Hội Công Giáo và gây ảnh hưởng rất lớn trên lịch sử nhân loại toàn cầu. Đồng thời với biến cố Vaticanô này và sau biến cố Công đồng Vaticanô II hơn một thập kỷ, Giáo Hội đã có một luồng sinh khí mới, thay đổi nhiều, đều và rộng khắp nơi trong lịch sử Giáo Hội. Học Viện Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam là một thành phần nhỏ bé của Giáo Hội Việt Nam, lại thêm nhiều lý do riêng lẻ của sự phát triển của toàn Dòng trên thế giới và tại đất nước Việt Nam thân yêu, Học Viện Dòng Chúa cứu Thế Đàlạt nửa cuối thập niên 1960, cũng có những biến cố đặc biệt.

Những thay đổi, tiến triển và cải tổ trong tổ chức, trong suy nghĩ, tư tưởng của mọi người, của Ban Giám đốc và Các Đấng Bề Trên đã thổi một luồng sinh khí mạnh nơi toàn Dòng và nơi từng thành viên của Học Viện. Từng thành viên nhà Dòng và Học Viện, bén nhạy sâu xa với lời mời gọi của Chúa Giêsu trong Tin Mừng, trong Giáo lý của Ngài, ý thức sự thay đổi do Chúa Thánh Thần, các thầy được trang bị bằng những luồng thần học chân chính, nhưng đi theo Công Đồng, được vun đắp bằng một nền triết học vững chắc, văn chương hiện đại, háo hức đi tìm những sáng kiến mới, tốt đẹp, phù hợp với luồng gió Chúa Thánh Thần thổi tới do Công đồng Vaticanô II mang lại, để hân hoan dấn thân tận hiến cho Chúa Kitô và bước theo Chúa Kitô trên vạn nẻo đường truyền giáo như lời truyền của Chúa phục sinh : “ Các con hãy tới với muôn dân,làm cho họ trở nên môn đệ của Thầy…” ( Mt 28,18-19).

Học viện Dòng Chúa Cứu Thế luôn đi theo đường của Chúa Cứu Thế, theo lý tưởng thánh Anphong, vị sáng lập Dòng, được Chúa Thánh Thần tiếp sức qua Công Đồng Vaticanô II. Nên, vào những năm cuối thập niên 1960, tại Học Viện Đàlạt, được Các Bề Trên và Ban Giám Đốc khuyến khích, Học Viện Dòng Chúa Cứu Thế Đàlạt ý thức việc nhập thế của Chúa Giêsu, Đấng duy nhất mang ơn cứu độ, Đấng hôm qua, hôm nay và ngày mai vẫn là một và vào đời để loan tin vui, Tin Mừng của Chúa bằng nhiều phương cách mới mẻ, đã thúc giục, khơi lên bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ là sống hồn nhiên, hăng say và thoải mái, đã như làm tràn lên sự hăng say đổi mới của luồng gió Chúa Thánh Thần trong ngày lễ Ngũ tuần xưa, phát động sôi nổi những phong trào trẻ trung, mới mẻ mà đặc biệt là hát những bài ca vào đời : “đem Chúa vào đời để giới thiệu cho mọi người,nhất là cho giới trẻ”. Và như thế :

1. Nhóm Alléluia vào đời thuộc Học Viện Dòng Chúa Cứu Thế ra đời trong hoàn cảnh nửa thập niên 1960.

2. Tất cả những bài ca vào đời đều do các thầy Học Viện lúc đó sáng tác với nguồn cảm hứng từ Kinh Thánh, Thánh vịnh và cảm hứng từ một số bản nhạc vào đời của nhóm Alléluia Dòng Chúa Cứu Thế Canada.

3. Nhóm ca vào đời được kết tụ do một số Thầy Học Viện Dòng Chúa Cứu Thế có giọng hát tốt, biết nhạc và biết chơi nhạc, trong số đó phải kể những gương mặt sáng còn lại trong Dòng và đã trở thành các linh mục : Cha Phêrô Nguyễn Thành Tâm, Cha Giuse Trần Sĩ Tín, Cha Phêrô Nguyễn Đức Mầu (biệt hiệu Hoàng Đức), cha Matthêu Vũ Khởi Phụng, Cha Giuse Tiến Lộc, cha Stanislas Lê vĩnh Thủy (chơi trống) và nhiều thầy đã ra đời như Vũ Nhuận, Vinh, Tuấn vv…

4. Nhóm Alléluia vào đời gây được ảnh hưởng rất lớn trong thời kỳ đó, thành công lớn, nhưng cũng chịu nhiều thành kiến.

5. Những bản ca vào đời của nhóm Alléluia hiện nay không còn được các bạn trẻ hát rầm rộ như những năm cuối thập niên 1960, kéo dài đến gần năm 1975, nhưng một số bài thỉnh thoảng vẫn còn được các ca đoàn hát và cũng còn khá hấp dẫn, gây ấn tượng không ít, chẳng hạn như bài : Ca Vào Đời, Trên Đường Emmaus, Alléluia Hát Lên Người Ơi ! vv…


____Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

(theo tài liệu Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam)

Monday 24 August 2009

LỜI THIÊNG

Người chết nối linh thiêng vào đời...” (Trịnh Công Sơn)

Nửa đêm về sáng thứ bảy ngày 2.4.2005, Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II trong cơn hấp hối lặp đi lặp lại nhiều lần: “Tôi tìm kiếm đã lâu, giờ đây mới được thấy mặt, xin cảm tạ...” Tiến sĩ Navarro Valls, trưởng Phòng Báo Chí Toà Thánh họp báo lúc 11 giờ 30 trưa, bình luận rằng: “Đêm qua, có lẽ Đức Thánh Cha đã có trong trí hình ảnh những bạn trẻ mà ngài đã gặp... Thật vậy, dường như ngài nhắc đến họ khi lặp đi lặp lại nhiều lần câu này”.

Không biết trong các Đại Hội Giới Trẻ, Đức Thánh Cha có hay nói câu nào như thế chăng, để cho ông Navarro Valls liên tưởng đến các bạn trẻ. Nhưng ông Navarro Valls cũng chỉ có thể dùng những cụm từ “có lẽ” và “dường như”,em bởi Đức Gio-an Phao-lô II cứ nói mãi một câu lửng lơ. Ngài từng tìm ai ? Và bây giờ giáp mặt với ai ? Lời nói mông lung của một người như ngài vào thời điểm sắp “ra khỏi thế gian”, thời điểm

Run như run thần tử thấy long nhan
Run như run hơi thở chạm tơ vàng
Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến...
Hàn Mạc Tử).

Khiến cho ta cảm thấy đang ở trước cánh cửa mở toang vào cõi vô hình, vậy thì biết đâu không chỉ Navarri Valls mà cả ta cũng được phép đưa ra những điều “có lẽ” và “dường như”...

Đoạn cuối của di chúc được Đức Gio-an Phao-lô viết thêm trong Năm Thánh 2000 ghi: “Khi giờ cuối cùng của đời tôi đang dần đến, tôi nghĩ đến thời gian đầu, nhớ cha mẹ, nhớ anh, nhớ chị ( tôi chưa từng biết vì chị đã qua đời trước khi tôi sinh ra)... Vậy phải chăng giờ cuối, cũng là lúc gặp lại những người của thời gian đầu.
“Tôi tìm kiếm đã lâu, giờ đây mới được giáp mặt, xin cảm tạ...
Hãy nhìn lại tuổi thanh xuân của Karol Wojtyla, cái gia đình nhỏ bé ấy sao mà nhiều tang tóc vậy. Mới 9 tuổi Karol đã mồ côi mẹ, một vết thương lòng không sao hàn gắn nổi. Mười năm sau, chàng trai Karol viết những thơ đầu đời (dịch ra tiếng Việt đã mất nhiều hương vị):

Mồ mẹ phiến đá trắng
Hoa trắng ngát cõi đời
Con quỳ đây buồn bã
Bao tháng ngày đã trôi
Nghĩ như vừa đây thôi.
Ôi mẹ, tình yêu đã tắt
Môi con mệt mỏi thì thầm
Mẹ về an nghỉ vĩnh hằng...

Hai năm sau ngày mẹ mất, nỗi buồn vẫn còn ngùn ngụt, Karol lại mất luôn người anh Edmund mà cậu hết lòng cảm phục. Trên đời còn lại một bố, một con trai. Bố đưa con đi leo núi trượt tuyết, và đi hành hương: “Hình ảnh cha tôi quỳ gối cầu nguyện in đậm nét lên bước đường dấn thân của tôi”. Năm đó là 1941, Karol 20 tuổi. Từ đó Karol chỉ còn một mình, giữa một đất nước đang chìm đắm trong đêm dài của chế độ Quốc Xã Đức và trong Thế Chiến thứ 2.

Những mất mát đó là những chuẩn bị huyền nhiệm cho chàng trai lớn mạnh để rồi cuối cùng thành người khổng lồ tâm linh, thành vị Giáo Hoàng lay động cả thế giới. Mấy ai có thể đoán được vóc dáng sừng sững ấy lại được cấu tạo bằng những nỗi đau tử biệt sinh ly? 75 năm, 65 năm từ ngày mồ côi cha mẹ, hôm nay mới đi hết con đường dài, đi qua cái thế gian của những chia lìa xa cách ngàn trùng. “Tôi tìm kiếm đã lâu, giờ đây mới được giáp mặt, giờ đây gương vỡ lại lành, xin cảm tạ”.

Và có lẽ không chỉ xa cách cha, mẹ, anh, chị. Những thảm cảnh thế gian mà Karol trải qua cũng gợi lên biết bao trống vắng, bao xa cách về tình người. Giữa một thời nhiều người Công Giáo Ba Lan cũng mắc phải chứng bệnh bài Do Thái mù quáng và tàn ác, Karol Wojtyla có mối tâm giao đặc biệt với bạn bè Do Thái. Anh hiểu được nỗi đau của con cháu Abraham. Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II về sau đã gọi những nạn nhân Do Thái trong các trại tập trung hồi Thế Chiến thứ 2 là những người Tử Đạo. Suốt đời Karol Wojtyla rồi Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II đi tìm thế giới của tình yêu, của sự sống.

Khẩu hiệu “Totus Tuus” ( Con thuộc trọn về Mẹ ) phát xuất từ lòng sùng kính rất truyền thống, cũng rất Ba Lan, nhưng ta có thể hình dung được nơi một con người đã mất cả gia đình, và đã chứng kiến những thảm cảnh của nhân loại, khẩu hiểu ấy lại càng thêm da diết. Cho tới khi ngài thoát chết trong vụ mưu sát ngày 13.5.1981, mối liên kết với Đức Mẹ lại càng được gia tăng cường độ.

Đức Hồng Y Tucci, người rất thân cận với Đức Giáo Hoàng, kể lại: “Đức Thánh Cha là người đối thoại liên tục với Thiên Chúa, và với Đức Mẹ. Lúc nào cũng cảm thấy cần nói chuyện với Đức Ki-tô. Cả khi đi nước ngoài ngài vẫn thức dậy rất sớm và cứ thế cầu nguyện bất động cả tiếng đồng hồ. Đôi khi tôi nghe ngài hát khe khẻ những bản thánh ca Ba Lan. Ngài không thích gì bằng được quay mặt lên bàn thờ mà làm việc, đến nỗi khi làm Tổng Giám Mục ở Crakow, ngài có cả một bàn quỳ đặc biệt có thể sử dụng làm bàn viết

Và hôm nay, ngài sắp lên đường đi một chuyến quyết định. 8 giờ tối thứ bảy, Thánh Lễ Đồng Tế Chúa Nhật Kính Chúa Giàu Lòng Thương Xót được cử hành trong phòng Đức Thánh Cha. Bài Thánh Thư hôm nay trích trong Thư thứ nhất của Thánh Phê-rô: “Tuy không thấy Người (Chúa Ki-tô), anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả” (1 Pr 3, 8).

Có phải vì vậy mà, theo lời vị thư ký riêng của ngài, Đức Ông Mieczyslaw Mokrzycki, Đức Thánh Cha đã nhắn lại một lời cuối cùng: “Cha rất hạnh phúc và các con cũng nên vui mừng. Đừng khóc. Hãy cầu nguyện trong niềm vui”... Vâng, Tôi tìm kiếm đã lâu, giờ đây mới được giáp mặt, xin cảm ơn”...

Bây giờ là sáng Chúa Nhật ngày 3.4.2005. Di hài Đức Gio-an Phao-lô II mặc áo lễ đỏ thắm, đặt trong Cung Clementina. Trong đoàn người vây quanh linh sàng, gồm các Hồng Y và các nhân viên trong Giáo Tông Đường, phóng viên mô tả thái độ của vị trưởng Đoàn Hồng Y: “Ngài Ratzinger cúi mình, hai tay ôm đầu”.
Chắc rằng ngài Ratzinger không thể khong biết chỉ ít hôm nữa thôi điều gì có thể xảy đến cho mình.

Và rõ ràng có một điều gì liên tục khi ba tuần lễ sau trên quảng trường Thánh Phê-rô, Đức Bê-nê-đich-tô XVI khai mạc Giáo Triều Giáo Hoàng của mình bằng những lời này:

Tất cả chúng ta đã cảm thấy cô đơn biết bao sau khi Đức Gio-an Phao-lô II qua đời, vị Giáo Hoàng hơn hai mươi sáu năm qua đã chăn dắt và hướng dẫn chúng ta đi trên đường đời ! Người đã bước qua ngưỡng cửa đời sau, đi vào mầu nhiệm của Thiên Chúa. Nhưng người không đi bước ấy một mình. Ai tin thì chẳng bao giờ cô đơn, dù khi sống hay khi chết. Vào lúc đó, chúng ta có thể kêu gọi các thánh thuộc mọi thời đại, là bạn hữu, là các anh, các chị của người trong đức tin, và ta biết rằng các đấng ấy sẽ làm một đoàn rước sống động để cùng với người đi vào thế giới đời sau, đi vào vinh quang của Thiên Chúa. Chúng ta biết rằng người đang ở với những đấng đồng thanh đồng khí với mình, người đang ở trong nhà mình.

Chúng tôi cũng được an ủi khi chúng tôi long trọng tiến vào Mật Hội, để bầy người Chúa đã chọn. Chúng tôi làm sao mà nhận rõ danh tính người ấy? Làm sao 115 vị Giám Mục, thuộc mọi nền văn hoá và mọi nước, có thể phát hiện ai là người Chúa muốn ban cho sứ mệnh ràng buộc và tháo cởi? Một lần nữa, chúng tôi biết mình không cô đơn, chúng tôi biết rằng có các bạn hữu của Thiên Chúa vây quanh mình, dẫn đường và chỉ hướng cho mình.

Và giờ đây, vào lúc này, tôi tá hèn yếu của Thiên Chúa như tôi lại phải đảm trách một nhiệm vụ quá sức lớn lao, đúng là vượt quá mọi khả năng của con người. Làm sao tôi làm được? Sức đâu mà làm? Các bạn thân mến, tất cả các bạn vừa kêu cầu toàn thể đạo binh các Thánh, mà tiêu biểu là những đại danh trong lịch sử Thiên Chúa giao tiếm với loài người. Như vậy tôi cũng có thể nói với một niềm xác tín mới: Tôi không cô đơn. Tôi không phải một mình gánh vác những điều thực sự tôi không thể gánh vác một mình. Tất cả các Thánh của Thiên Chúa ở đây để bảo vệ tôi, nâng đỡ tôi. Và thưa các bạn thân mến, lời cầu nguyện, lòng khoan dung, tình yêu mến, niềm tin, niềm cậy của các bạn cùng đi với tôi.

Quả thực, mầu nhiệm các Thánh Hiệp Thông không chỉ bao gồm những vĩ nhân nam nữ đã đi trước chúng ta và chúng ta đã biết danh. Tất cả chúng ta đều thuộc về mầu nhiệm các Thánh Hiệp Thông, chúng ta đã được chịu phép rửa nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, chúng ta đã lãnh nhận sự sống được ban tặng cho chúng ta trong Mình và Máu Chúa Ki-tô, nhờ đó Chúa biến đổi chúng ta và cho chúng ta nên như Chúa...

VŨ KHỞI PHỤNG, 28.4.2005

Friday 21 August 2009

Về thầy Marcel Văn

Buổi thuyết trình về thầy Marcel Văn (DCCT): Một chứng nhân của tình yêu và làm chứng cho sự thật
Nhân kỷ niệm 50 năm ngày sinh nhật trên trời của thầy Marcel Văn (1959-2009), Tỉnh DCCT Việt Nam đã tổ chức hai buổi thuyết trình về cuộc đời của thầy Marcel tại Tu viện DCCT Sài Gòn (ngày 15 và 16/8/2009) với sự tham dự của đông đảo quý cha, quý thầy trong Tỉnh. Thuyết trình viên là Bà Anne de Blay, Chủ tịch hội “Les Amis de Văn” (Những người bạn của Văn).
Với lòng yêu mến đặc biệt tâm hồn đơn sơ của thầy Marcel và sau nhiều năm nghiên cứu và suy tầm những chứng tích về thầy Marcel Văn, bà Anne de Blay đã trình bày cho người nghe hiểu rõ hơn về con người và đời sống tâm giao với Chúa của thầy Marcel.
Vì hoàn cảnh chính trị, xã hội nên anh em DCCT Việt Nam (tuy là "người nhà") lâu nay chưa có cơ hội nhiều để hiểu rõ hơn về con người của Thầy. Qua buổi thuyết trình, anh em đã khám phá rõ nét hơn nơi thầy một gương sống đơn sơ, thánh thiện, một chứng nhân của tình yêu mến Chúa và là một chứng nhân can trường trong hành trình đi tìm công lý và sự thật.











Đôi dòng về thầy Marcel Văn
“Thầy Marcel Nguyễn Tân Văn, Dòng Chúa Cứu Thế, sinh ngày 15.03.1928 và qua đời ngày 10.07.1959 tại Việt Nam, đang là một "hiện tượng lạ" trong đời sống của người Công Giáo trẻ tại Âu Châu, cách riêng ở Pháp. Cuộc đời ngắn ngủi của Thầy Marcel Văn theo gương phó thác và tin tưởng của Chị Thánh Têrêxa Hài Ðồng Giêsu đã lôi cuốn nhiều người trẻ Công Giáo ở Châu Âu đang chới với giữa những bấp bênh của một xã hội tiêu thụ khám phá lại hình ảnh Thiên Chúa từ nhân luôn quan tâm chăm sóc đến con cái của Ngài.
, Dòng Chúa Cứu Thế, sinh ngày 15.03.1928 và qua đời ngày 10.07.1959 tại Việt Nam, đang là một "hiện tượng lạ" trong đời sống của người Công Giáo trẻ tại Âu Châu, cách riêng ở Pháp. Cuộc đời ngắn ngủi của Thầy Marcel Văn theo gương phó thác và tin tưởng của Chị Thánh Têrêxa Hài Ðồng Giêsu đã lôi cuốn nhiều người trẻ Công Giáo ở Châu Âu đang chới với giữa những bấp bênh của một xã hội tiêu thụ khám phá lại hình ảnh Thiên Chúa từ nhân luôn quan tâm chăm sóc đến con cái của Ngài.
Cha Giáo tập Antonio Boucher đã sớm nhận ra nơi Thầy Văn một tấm gương đạo đức, nhiệt thành và phó thác. Ngài đã yêu cầu Thầy Marcel Văn ghi lại những diễn tiến đã xảy ra cho cuộc đời của Thầy.
Nhờ một tập hồ sơ với hơn 1000 trang giấy viết tay và 370 lá thư còn được lưu giữ, trong đó Thầy Marcel Văn ghi lại những đặc ân Chúa ban theo lời truyền dạy của cha linh hướng Dòng Chúa Cứu Thế người Canada Antoine Boucher, một linh mục người Pháp, cha Marie-Michel thuộc Dòng Camêlô vào năm 1990 đã viết cuốn "L'Amour Ne Peut Mourir" (Tình Yêu Không Thể Chết) nói về cuộc đời Thầy. Cuốn sách này sau đó đã được dịch ra các thứ tiếng khác trong đó có tiếng Việt, Anh, Tây ban nha, Đức và Ý. Cuộc đời của Thầy Marcel Văn qua tác phẩm này đã đánh động nhiều người tại Châu Âu, cách riêng giới trẻ, trên con đường canh tân đời sống đức tin.”
Với một tấm lòng yêu mến và ngưỡng mộ thầy Marcel, Đức Hông Y Paul Joseph Cordes, Phó Chủ Tịch Hội Ðồng Giáo Hoàng đặc trách Giáo dân đã viết về thầy như sau:
"Một cậu bé, một thiếu niên, một thanh niên...
Một người nghèo khó bị lôi cuốn trong đau thương
của một xứ tan nát vì chiến tranh...
Nhưng trước tiên và trên hết là một tâm hồn thơ ấu đầy lòng khiêm nhường, lòng tin,
trong sạch và yêu mến.
Một đóa hoa bé nhỏ nhận lãnh và chuyển đưa
hương thơm của Têrêsa.
Của Têrêsa Hài Ðồng Giêsu mà anh đã được chia sẻ cuộc sống thâm tình trong nhiều năm.
Marcel Nguyễn Tân Văn...
Một món quà cho Giáo Hội Việt Nam...
Một món quà cho toàn thể Giáo Hội...
Một mời gọi đối với các bạn trẻ trên toàn thế giới."

Monday 17 August 2009

Được sai đến thế gian

Được sai đến thế gian [Ga 17,14-18]


Theo Chúa Yêsu thì theo như từng Kitô hữu hay cả Hội Thánh vẫn luôn bị hai chước cám dỗ có vẻ trái ngược nhau đeo bám : thống trị thế gian hay trốn tránh thế gian.

Đang ở trong sa mạc như Chúa Yêsu sau 40 ngày chay tịnh thì lại được đưa lên “một núi cao chót vót và được chỉ cho thấy hết các nước thiên hạ và vinh quang của chúng” (Mt 4,8). Thầy không sa chước cám dỗ nhưng các môn đồ sau này cứ vướng víu mãi với cái mộng vớ vẩn “được ngồi một người bên hữu, một người bên tả trong vinh quang của Thầy” (Mc 10,37) và với nỗi thắc mắc trật chìa “phải chăng thời này là lúc Ngài khôi phục vương quyền cho Israel?” (Cv 1,6). Rồi sau này khi Hội Thánh từ gần ba thế kỷ bị bắt bớ được đưa lên cao chót vót bên cạnh Hoàng đế Constantinô và các vua chúa khác… Hoặc gần đây khi Hội Thánh ở Ba Lan từ chế độ cũ bước sang nhiệm kỳ tổng thống Lech Walesa… Chưa kể là không đợi được đưa lên một núi cao chót vót nào, ngay giữa sa mạc, giữa những hoàn cảnh khó khăn, khắc nghiệt, trong Hội Thánh vẫn không thiếu những kẻ theo voi ăn bã mía và rắp tâm lôi kéo Hội Thánh “phục mình bái lạy” (Mt 4,9) hoàng đế, thiên tử để tồn tại mà không còn là mình nữa. Chước cám dỗ này là thường xuyên và lời nguyện “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ” là luôn luôn khẩn thiết.

Được Chúa Yêsu đưa lên một đỉnh đồi cao nào đó thì các môn đồ lại chỉ dán mắt vào “một đám mây đã quyện lấy Ngài đi khuất mắt họ” và “đăm đăm nhìn lên trời”. Hẳn họ sẽ trồng chân tại chỗ, ở luôn trên ấy và chỉ chực Chúa kéo họ về trời luôn. Nếu khống có tiếng nói lay tỉnh : “Các ông, người Galilê, tại sao các ông cứ đứng đó nhìn trời?” (Cv 1,11).

Ai dám nghĩ rằng chước cám dỗ thoát tục lại không phải cũng là thường xuyên đối với Hội Thánh và trong Hội Thánh? Từ một tín hữu “chỉ biết lấy kinh nguyện làm vui” ở miết trong nhà thờ hết lễ này đến lễ nọ hay giờ chầu khác để thoát khỏi những chuyện không mấy vui trong gia đình, để khỏi bận tâm, can thiệp vào những vấn đề rắc rối của làng xóm, của khu nhà tập thể. Cho đến một họ đạo chỉ biết động viên mọi người “chăm lo việc nhà thờ nhà thánh” một linh mục chỉ quan tâm tới “phần rỗi linh hồn người ta” hoặc cả một giáo hội địa phương chỉ còn cố cứu vãn, bảo vệ “những gì chính yếu”, những cái gọi là “thuần túy tôn giáo” mà nhắm mắt làm ngơ, giả câm giả điếc trước những thiếu thốn, bất công, sa đọa của xã hội quanh mình. Cũng phải hằng ngày khẩn thiết “ xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”.

Chúa Yêsu đã cự tuyệt lời đề nghị của ma quỷ, gạt đi những yêu cầu của các môn đồ xin được ngồi bên tả, bên hữu để trị vì hay đòi “khiến lửa từ trời giáng xuống” trừng trị thiên hạ (Lc 9,54). Ngài dạy kẻ theo Ngài không được như vua chúa thế gian nhưng chỉ có một cách làm lớn, cầm đầu là hầu hạ, lên ngôi là để làm tôi mọi người. “Vì chưng Con Người không đến để được hầu hạ, nhưng là để hầu hạ và thí mạng sống mình giá chuộc thay cho nhiều người” (Mc 10,42-45). Ngài xác quyết với Philatô : “Nước tôi không thuộc về thế gian này” nhưng đồng thời vẫn khẳng định “Ông nói đó : Tôi là Vua. Chính vì lẽ này mà tôi đã sinh ra, và chính vì lẽ này mà tôi đã đến trong thế gian : ấy là để làm chứng cho sự thật” (Ga 18,36-37). Vương quyền của Chúa Kitô không thuộc về thế gian, không cùng loại với quyền lực trần thế, không xuất phát từ quyền lực trần thế, không “ăn theo”, không lệ thuộc quyền lực trần thế, nhưng vẫn được thực hiện ngay giữa thế gian này vì luôn luôn và chỉ liên quan tới sứ mệnh cứu rỗi, mặc khải sự thật cho trần thế. Những ai theo Ngài cũng vậy. Giờ ra đi, Ngài biết mình “không còn ở trong thế gian nhưng họ ở trong thế gian” Ngài “không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin gìn giữ họ khỏi Kẻ Dữ”. Phải chăng là để họ cũng như Ngài “không thuộc về thế gian”. Và “như Cha đã sai con đến trong thế gian” Ngài “cũng sai họ đến trong thế gian” (Ga 17,15-18)

Ở trong thế gian. Không thuộc về thế gian. Được sai đến trong thế gian. Chính đó là tư thế đặc thù của Kitô hữu. Tuy có vẻ nghịch lý. Ở trong thế gian mà lại không thuộc về thế gian! Ở trong thế gian mà còn được sai đến trong thế gian! Tuy vậy cứ phải đủ cả như thế mới là Kitô hữu đích thực. Chỗ đứng của họ vẫn là ở trong thế gian chứ không phải trên một đỉnh núi siêu thoát nào. Nhưng ở trong thế gian mà cũng chỉ áo mũ xum xoe, tiền bạc rủng rỉnh, cũng thuộc về thế gian, chỉ đại diện cho “sự sang trọng thế gian” thì còn được Chúa sai đến trong thế gian mà làm gì? Ngài sai đến trong thế gian đâu phải để tranh giành quyền lực, của cải thế gian nhưng là để nhờ Ngài, trong Ngài và với Ngài thực hiện sứ mệnh cứu rỗi, mặc khải sự thật của Ngài. Phải không thuộc về thế gian mà “thuộc về Cha và Cha đã ban cho Con” (Ga 17,6-9) thì mới đáng được Ngài sai đến trong thế gian như thế. Và phải không thuộc về thế gian thì mới có được đầy đủ “sự tự do của con cái Thiên Chúa” trong sứ mệnh mặc khải sự thật kia. “từ hẳn những mưu thầm chước ẩn đáng hổ thẹn, không giở trò bịp bợm, không xuyên tạc lời Thiên Chúa, nhưng công nhiên giải bày sự thật, giới thiệu mình với mọi lương tâm người đời, trước mặt Thiên Chúa” như thánh Phaolô (2Cr 4,2).

Không mải mê nhìn theo Chúa Yêsu lên trời mà trở về với cuộc sống thường ngày, không tề tựu mãi một nơi mà “như thể do cuồng phong thổi đến” được đẩy cả ra đường ngày Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Hội Thánh được sai đến trong thế gian như thế thì có thể không mang gì theo hết theo mình nhưng không bao giờ thiếu hành trang là một niềm tin cậy lạc quan vô biên và bất tận. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Hội Thánh cũng có thể nói như Phêrô khi đứng trước người què bên cửa Đền thờ : “Bạc vàng tôi không có, song có gì thì tôi cho anh” (Cv 2,6). Hội Thánh biết mình có gì chính yếu nhất, không phải do thế gian ban cho, trái lại tuyệt đối cần cho thế gian. Và cũng vì để có gì thì cho mà Hội Thánh được sai đến trong thế gian.

Hội Thánh có thể và phải sống, thực hiện sứ mệnh của mình, “dạn dĩ nói về Danh Đức Chúa Yêsu” (Cv 9,27) trong bất cứ hoàn cảnh địa lý, lịch sử nào. Hai mươi thế kỷ lịch sử Hội Thánh đã luôn luôn chứng tỏ điều ấy, nhất là Công Vụ Các Tông Đồ và lịch sử truyền giáo. Hoàn cảnh tốt hay xấu, tốt xấu thế nào đi nữa, đến đâu đi nữa thì cũng vẫn chình là nơi là lúc Hội Thánh nói chung, từng Kitô hữu nói riêng, được sai đến. Để sống theo Tin Mừng và để loan báo Tin Mừng. Không phải tìm tới nơi nào khác, không phải đợi đến lúc nào khác.

Vì không có hoàn cảnh nào là hỏa ngục tại thế cả. Thế gian có là thế gian tà vậy, còn có bóng dáng của Kẻ Dữ thì Chúa Kitô vẫn đã sống lại, “đầu mục thế gian bị lên án rồi” (Ga 16,11), đã “bị đánh quỵ” nếu không phải là đã “bị đuổi ra ngoài” (Ga 12,31), có còn mon men lui tới thì cũng “không có quyền gì” (Ga 14,30) trên Ngài nữa. “Hãy vững lòng ! Ta đã thắng thế gian” (Ga 17,33)

Phải trải qua muôn thuở ban đầu gần ba thế kỷ ‘khốn quẫn’ giữa Đế quốc Rôma hay sau đó hàng trăm năm ở nước nọ nước kia. Hội Thánh vẫn sống Phúc Thật Thứ Tám và không bao giờ thấy hoàn cảnh đang sống là hoàn cảnh tuyệt vọng chính vì nhờ hơi sức Chúa Thánh Thần mà vẫn ‘vững lòng’. Huống chi ngày hôm nay, người tín hữu có thể bụng bảo dạ rằng : Hội Thánh không còn có thể gặp hoàn cảnh nào ‘khốn quẫn’ hơn những hoàn cảnh đã trải qua trong quá khứ. Nói chi đến hoàn cảnh khi Chúa Yêsu bị bắt, thụ nạn, bị đóng đinh vào thập giá, chết thảm khốc, trần trụi và trắng tay, các môn đồ của Ngài đều vấp ngã, khi “kẻ chăn bị đánh và chiên trong đàn tán loạn” (Mt 26,13).

Cho nên Kitô hữu tuy cũng như mọi người có quyền chọn đất sống cho mình vì lý do tâm lý, văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị .v.v… nhưng với tư cách là Kitô hữu không có quyền bảo rằng phải đi chỗ khác để giữ đạo, phải đi chỗ khác thì mới giữ đạo được. Ngày ‘khốn quẫn’ nhất kia, ‘kẻ đã tin’ và là kẻ duy nhất vẫn tin, không vấp ngã là Maria thân mẫu Chúa Yêsu thì đã “đứng bên khổ giá”, không phải trốn chạy đi đâu hết… giữ đạo !

Thiên Chúa lại vẫn làm được công việc của Ngài trong bất cứ hoàn cảnh nào và trái với những tính toán, toan tính của người đời.

Tại Công nghị Do Thái, Caipha đã tưởng mình tính được điều các người khác “không tính được”. Có biết đâu là cả ông nữa cũng không tính được như Thiên Chúa đã tính và có biết đâu là “điều ấy, ông đã nói ra không phải tự mình, nhưng vì là thượng tế năm ấy, ông đã nói tiên tri” : một người là Yêsu chết không chỉ “thay vì cả dân” mà còn thay vì cả nhân loại, không chỉ để tránh cho “toàn dân khỏi bị tru diệt” nhưng “còn để thâu họp con cái Thiên Chúa tản mác về lại làm một” (Ga 11,45-52).

Saulô “hằm hằm đe dọa, thở ra sát khí đối với môn đồ của Chúa” đã lên đường đi Đamma định làm gì? Nhưng chỉ non một tuần sau, người ta thấy Saulô xuất hiện ở Đamma không phải để truy tìm các Kitô hữu, “xiềng trói lại mà điệu về Yêrusalem” nhưng là để “rao giảng trong các hội đường về Đức Yêsu” (Cv 9,1-22)! Đường đi Đamma lại mở ra Đường Truyền giáo không phải chỉ ba lần suốt dọc Địa Trung Hải mà còn “cho đến mút cùng mặt đất” (Cv 1,8).

Từ đó về sau, không biết bao nhiêu máu Kitô hữu đã đổ ra cũng trên khắp mặt đất này, từ thế hệ này đến thế hệ khác, không ở nước nọ thì ở nước kia, nhưng Hội Thánh vẫn tin và vẫn được chứng nghiệm : máu tử đạo là hạt giống nảy sinh Kitô hữu (Sanguis martyrum semen christianorum).

Khi không đến nỗi phải chết vì đạo mà chỉ rơi vào một nghịch cảnh thì cũng vậy. Chẳng hạn Hội Thánh ở Pháp vào những năm đầu thế kỷ XX sắp qua đi này. Sau vụ Dreyfus, tinh thần bài giáo sĩ nổi lên dữ dội hơn bao giờ hết trong giới cầm quyền Đệ Tam Cộng Hòa Pháp. Từ 1901 – 1904 : những đạo luật chống phá các dòng tu. Trên 3.000 trường học bị đóng cửa. Các tu sĩ nam nữ đã phải phân tán, hồi tục, trốn tránh ra nước ngoài nếu không bị trục xuất như các đan tu ở Chartreuse chẳng hạn. Cuối năm 1905 : Luật tách biệt Nhà Thờ với Nhà Nước. Thỏa ước 1801 bị đơn phương xóa bỏ. Ngân sách dành cho việc thờ phượng bị dẹp sạch khi mà Giáo Hội Pháp đã sẵn bị tước đoạt rất nhiều từ hồi Cách Mạng 1789 . Luật Tách biệt này còn là một phen tước đoạt nữa : các chủng viện, nhà xứ, tòa giám mục. Người Kitô hữu Pháp lại một phen điêu đứng. Từ 1905 – 1914 số tân linh mục giảm hẳn đi một nửa. Trắng tay, thiếu thốn, Giáo hội phải kêu gọi và trông chờ đồng tiền quyên góp của giáo dân. Nhiều thập niên sau các cuốn giáo sử chỉ nhắc tới Luật Tách Biệt như một đại họa cho Giáo Hội Pháp. Còn những năm về sau này, nhất là từ sau Công Đồng Vatican II, càng ngày người ta càng có thể thấy Giáo hội Pháp đã được nhiều hơn mất từ Luật Tách Biệt. Luật ấy làm… xì hơi óc bài giáo sĩ. Nhưng điều quan trọng hơn là Hội Thánh ở Pháp nhờ nó đã tìm lại được sự tự do cho mình. Nhà thờ tách biệt với nhà nước, không còn bị thỏa ước 1801 và các điều khoản bổ sung trói buộc, cho nên từ đó các giám mục được Tòa Thánh trực tiếp bổ nhiệm, hoàn toàn tự do hội họp, thảo luận, đồng thuận với nhau về đường lối mục vụ chung. Giáo Hội không phải nhờ vả ngân sách quốc gia thì lại tự do xây cất nhà thờ mới, thành lập các họ đạo mới. Thu nhập trung bình của linh mục Pháp thấp hơn mức tối thiểu do nhà nước quy định nhưng Giáo Hội Pháp, ít nữa là hồi trước Công Đồng Vatican II, đã thật phong phú về nhiều mặt như thần học, sáng kiến mục vụ, tông đồ giáo dân .v.v… và đã đóng góp phần đặc biệt đáng kể cho thành tựu của Công Đồng.

Người ta vẫn tìm cách giải thích sự hồi sinh hay phát triển của Hội Thánh bằng những lý do tâm lý, xã hội, kinh tế, chính trị này nọ. Những lý do ấy không phải là không có, nhưng không hề đủ. Chỉ trong lòng tin Hội Thánh mới thấy được nguyên lý xuyên suốt lịch sử của mình: sức sống Chúa Thánh Thần (Cv 1,8).

Cũng không có hoàn cảnh nào là thiên đàng tại thế cho Hội Thánh. Chưa hề có và sẽ không bao giờ có. Cho tới khi Chúa lại đến. Ngay cả những năm tháng Đức Yêsu có mặt giữa các môn đồ, đích thân rao giảng Tin Mừng cũng không phải đã là hoàn cảnh tốt đẹp nhất : “Thầy ra đi thì ích lợi hơn cho anh em” (Ga 16,7). Quả quyết này liên quan đến cả hay đến chính sự xuất hiện của Chúa Kitô sống lại giữa các môn đồ. Huống hồ những hoàn cảnh thuận lợi nào khác mà Hội Thánh đã được gặp trong lịch sử. Từ ‘thời đại Constantinô’ trong cả Đế quốc Rôma xưa kia cho đến nhiệm kỳ tổng thống Lech Walesa gần đây ở Ba Lan, không hoàn cảnh nào đã là thiêng đàng cho Hội Thánh cả. Thuận lợi nhiều thì cám dỗ, cạm bẫy cũng lắm. Ngay trong phạm vi từng họ đạo, từng tu viện, người kitô hữu vẫn dễ dàng cảm nghiệm được thực tế đó.

Hoàn cảnh khốn quẫn, nghiệt ngã là một thử thách cho Hội Thánh đã đành rồi nhưng hoàn cảnh thuận lợi, ‘tốt đẹp’ lại là một thử thách khác. Và có lẽ chính trong hoàn cảnh này Hội Thánh lại cần “tỉnh thức và cầu nguyện” (Mc 14,38) nhiều hơn để khỏi sa chước cám dỗ vừa quỵ lụy thế gian, vừa thống trị thế gian, nghĩa là sa lầy trong thế gian, chung chạ với thế gian, ‘ thuộc về thế gian’.

Tựu trung hoàn cảnh thực tế đó Hội Thánh cũng như từng Kitô hữu được sai đến vẫn là hoàn cảnh đã được chính Chúa Yêsu mô tả trong Mt 13,24-30 : lúa tốt và cỏ lùng xen lẫn nhau. Không thể nào khác được. Hoàn cảnh nào cũng tranh tối tranh sáng. Cũng dị nghĩa như chính ‘thế gian’ vừa là thế gian tà vạy, sẵn mưu ma chước quỷ - Kitô hữu không được thuộc về thế gian ấy (Ga 16,8tt; 17,9.14 vv…) vừa là thế gian được “Thiên Chúa yêu mến đến đỗi ban Con Một của Ngài” (Ga 3,16) và Chúa Yêsu cũng sai môn đồ đến (Ga 17,18). Không thể nào khác được. Cho tới khi Chúa lại đến !

Như thế quả là Hội Thánh luôn có thể và phải sống giữa bất kỳ hoàn cảnh địa lý, lịch sử nào. Nhưng sống là sống “trong Thần Khí và Sự Thật” (Ga 4,23) chứ không phải là sống xu thời, sống cơ hội theo kiểu như : “L’Eglise en vertu de son immanence couche avec tous les régimes et en vertu de sa transcendance les concubine tous” (Giáo hội vì có tính nội tại thì ngủ với tất cả các chế độ và vì có tính siêu việt lại cho tất cả các chế độ mọc sừng). Một tờ bào báo Công Giáo Pháp hồi trước 1975 đã từng ghi lại một nhận định như thế. Nhưng nói như thế chỉ có thể là nói đùa (boutade) hay ghi nhận một khía cạnh nào đó thôi trong lịch sử Hội Thánh. Khía cạnh này nếu có thì không phải là chính yếu, không thuộc về cốt cách của Hội Thánh và chỉ phản ánh một cái nhìn phiến diện về lịch sử Hội Thánh. Kitô hữu không có lý do gì để hãnh diện với thứ khả năng tùy cơ ứng biến, thích nghi, tồn tại kiểu ấy, nếu có thể nó đã là thực tế một thời gian nào đó, ở chỗ nọ chỗ kia.

Hội Thánh sống đích thực, sống chân thật, sống theo Tin Mừng thì không phải là nhân danh những phạm trù triết học như tính nội tại (immanence) và tính siêu việt (transcendance), nhưng là theo, vì và trong Mầu Nhiệm Nhập Thể và Mầu Nhiệm Phục Sinh. Theo, vì và trong Mầu Nhiệm Nhập Thể, Hội Thánh không được Chúa Yêsu “xin cất khỏi thế gian” mà lại được Ngài “sai đến trong thế gian” cho nên có thể và phải sống, tồn tại lớn lên và làm chứng được cho Tin Mừng trong bất kỳ hoàn cảnh lịch sử nào.

Theo, vì và trong Mầu Nhiệm Phục Sinh, Hội Thánh có thể và phải sống vượt qua mọi thăng trầm thế sự, không ngủ quên, sa lầy trong một hoàn cảnh lịch sử nào, “không thuộc về thế gian”, mà lại luôn có thể và phải thi hành sứ mệnh ngôn sứ, chất vấn, đánh giá mọi hoàn cảnh lịch sử đối chiếu với Nước Trời.

Cho tới khi Chúa lại đến …

Friday 14 August 2009

NẠN ĐÓI NĂM ẤT DẬU 1945

Một nạn đói khủng khiếp nhất lịch sử đất nước, thường gọi là «Nạn đói năm At Dậu», đã làm chết trên hai triệu nông dân Miền Bắc Việt Nam vào đầu năm 1945. Cách nay giáp 60 năm tròn, nạn đói này đã thật sự xảy ra dưới con mắt bàng quan của quân đội phát xít Nhật và chính quyền thực dân Pháp từ cuối năm 1944 đến Tết At Dậu 1945 và kéo dài đến khoảng tháng 5 dương lịch. Cùng năm ấy, tổng số tử vong do bom nguyên tử Mỹ thả xuống Hiroshima (ngày 6/8) và Nagazaki (ngày 9/8) của Nhật là khoảng 200 ngàn người.Hằng năm, Nhật và thế giới vẫn làm lễ tuởng niệm cho vong linh những nạn nhân xấu số này. Số tử vong của nạn đói năm At Dậu cao gấp 10 lần hơn, cũng do chính bàn tay độc ác của ngoại bang gây ra, nhưng từ đấy đến nay, các chính phủ VN không có lấy một hành động nhớ tưởng nào. Kể cả những quyền lực thực dân và xăm lược có nhúng tay vào tội ác tầy đình này cũng ngoảnh mặt làm ngơ luôn. Lúc bấy giờ, ai nếu chẳng phải là chính phủ bảo hộ Pháp hẳn phải thấy trước tai họa lớn lao này, nhưng chẳng những họ không tìm cách ngăn ngừa nạn đói mà còn đẩy cho nó trầm trọng hơn. Chính phủ phát xít Nhật, xua quân chiếm đóng Đông Dương từ năm 1941 cho đến khi thất trận giữa năm 1945 và trong bốn năm ấy đã tận lực vét cạn tài nguyên của Việt Nam để tiếp ứng cho chiến trường Đông Á của họ, hẳn phải biết rõ họ là thủ phạm trực tiếp gây ra vụ chết đói kinh hoàng này. Thế nhưng, mãi cho đến nay, mọi chính phủ đều đồng lõa với nhau để lấp liếm tội ác diệt chủng khốn nạn này. Không một nhà nước nào còn chút liêm sỉ để nhận trách nhiệm lập một hồ sơ chính thức, một tư liệu minh bạch về nạn đói vô tiền khoáng hậu này cả!

CHẾT ĐÓI NGAY TRÊN «VỰA LÚA» LƯU VỰC SÔNG HỒNG

Ngày nay, nói đến nạn đói năm At Dậu, các bậc niên trưởng chỉ lắc đầu thở dài, ngao ngán nhớ lại cảnh chết đói thảm thương ghê rợn không bút nào tả xiết. Người người bất lực, nhà nhà bất lực, làng nước bất lực trước nạn đói, nói gì đến chống đói và cứu đói. Những hình ảnh hãi hùng vẫn còn in đậm trong ký ức họ. Như mới ngày nào đây thôi, họ bàng hoàng nhìn những tấm thân gầy đét, xơ xác, lây động từng bước chậm chạp trên con đường cái quan, trong lớp quần áo rách tả tơi, rộng quá cỡ, phất phơ trong gió bấc giữa một mùa đông rét mướt khác thường. Xa xa đằng kia, cũng những hình hài gầy guộc khô đét dìu dắt nhau đi, lung linh trong gió rét căm căm. Bên lề đường gần đó, vài tấm thân chỉ còn da bọc xương đang nằm thoi thóp dưới lớp quần áo nhàu nát, rên rỉ không ra tiếng, tay chân co quắp lại như những cành cây khô cứng, bất động chờ chết. Trước con mắt xót xa đến tê dại của người qua đường, những hình ảnh thê thảm ấy cứ thế diễn ra dồn dập mỗi ngày trên khắp các nẻo đường của lưu vực Sông Hồng, «vựa lúa» của Miền Bắc Việt Nam.

Quả vậy, lác đác đó đây trên bờ ruộng, giữa con đường làng, bên con đường cái quan, nơi góc cây, mõm đá, một hai ba, rồi hằng chục, hằng trăm cái thây ma ngã đổ sóng sượt, chồng chất lên nhau, chết khô chết cứng dưới lớp mưa phùn gió bấc da diết của mùa đông năm ấy… Người chết như rạ! Mùi hôi thúi nồng nặc phảng phất khắp hang cùng ngõ hẻm. Kẻ còn chút hơi tàn thì vẫn cố lê bước thê lương ra đi, đi mãi, để rồi khi kiệt sức lại lăn ra chết, không một tiếng than khóc, trước con mắt bàng quan của những chiếc thân gầy đét khác khập khểnh, tiếp tục lê chân đi kiếm ăn, và chờ chết…

Họ là ai? Họ là những người dân quê cần mẫn, làm quần quật suốt năm tháng trên khắp miền đồng bằng Bắc Bộ, nơi mà đất đai phì nhiêu lẽ ra phải sản xuất dư đủ lúa gạo khoai sắn nuôi sống bản thân họ. Nhưng lúc bấy giờ, lạ thật, họ không còn gì để ăn, sau khi đã ăn sạch dần khoai củ và các giống chó mèo, cóc nhái, rồi đến các bụi chuối, luống lang, giun dế để cầm hơi. Họ đành phải bỏ làng ra đi tha phương cầu thực, nhưng tới đâu cũng cửa đóng then gài, làng mạc xơ xác hiu quạnh, vì nhiều người cũng đã kéo nhau ra đi về các thị xã phố phường với chút hy vọng ăn xin được chút cơm thừa canh cặn. Nhưng không, người thành phố cũng vất vả kiếm cơm, khi mà lương thực khan hiếm một cách tồi tệ, do tiếp vận khó khăn vì bom đạn của Mỹ (còn gọi là đồng minh) đánh phá các đường vận chuyển, và do chính sách thu mua lúa gạo của nhà nước thực dân Pháp và phát xít Nhật để nuôi quân. Từng tốp người, từng đoàn người đói rách cứ thế lũ lượt lê bước trên khắp các con đường đổ về các thị xã, phố phường, thành phố Hà Nội.

Ngay như tại Hà Nội, sáng sáng người ta thấy xác chết nằm ngổn ngang trên các vĩa hè đường phố, nơi công viên, sát các bờ tường, nép bên ngõ hẻm. Đó là xác những người đói lam lũ đi xin ăn, đêm đến đói lả, nằm vật vờ ra đâu đó, rồi chết lịm luôn. Có người quá đuối mệt, ngồi tựa cửa ra vào các căn nhà dọc phố xá, nghỉ tạm qua đêm, rồi chết cứng luôn ở đấy. Sáng ra, người nhà mở cửa, đụng phải xác chết lăn kềnh ra giữa lối đi hoặc đổ ập vào trong nhà, làm họ phải một phen thất điên bát đảo, kinh hãi rụng rời tay chân. Ngày ngày, người ta phải đem xe bò đi hốt những xác chết đó đem đi chôn vùi vội vã ở những hố chôn tập thể.

Suốt chiều dài lịch sử, chưa bao giờ dân tộc Việt Nam phải chịu một tai họa thảm khốc và kinh khiếp đến như thế. Trong vòng 5-6 tháng và trên chính «vựa lúa» của xứ mà Tây gọi là Bắc Kỳ (Tonkin), hơn 2 triệu nông dân trên khoảng 6 triệu rưởi dân số miền này, tức khoảng một phần ba dân số, phải chết đói. Ta có thể hình dung tội ác diệt chủng này nghiêm trọng và lớn lao đến mức nào. Thực dân Pháp lúc bấy giờ nắm quyền cai trị các nước Đông Dương, gồm có Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Cao Miên và Lào, hẳn phải chịu trách nhiệm pháp lý về nạn đói ấy. Quân lực phát xít Nhật dùng Việt Nam làm hậu cứ nuôi quân và tiếp liệu cho chiến tranh chắc chắn có trách nhiệm lớn trong tai họa khủng khiếp này. Thế mà cho đến nay, chưa có một chính phủ nào chịu tra cứu tường tận, thống kê chính xác, và lập hồ sơ vụ án để xét xử và đền bù thiệt hại.

VÀI NHÂN CHỨNG TƯỜNG THUẬT NẠN ĐÓI NĂM ẤT DẬU

Học giả Lưu Công Thành, cũng là một nhân chứng, đã viết: «Có thể nói nạn đói năm At Dậu là một cảnh tượng khủng khiếp nhất trong lịch sử! Những tháng đầu năm đó, trên các nẻo đường chính ở những đô thị lớn, hàng đoàn người già trẻ, lớn bé thất thểu dắt nhau đi cầu thực, tất cả chỉ còn da bọc xương… Ở một vài nơi có Hội từ thiện tổ chức phát cháo cứu trợ, nhưng có người nhận cháo rồi vẫn lăn ra chết vì quá kiệt sức! (…) Thời điểm xảy ra nạn đói là vào mùa đông nên cứ mỗi đêm sáng ra lại có thêm rất nhiều người là nạn nhân của tử thần. Người chết nhiều đến nỗi Sở Vệ Sinh và Bệnh Viện thành phố phải thuê xe bò đi hốt xác và tổ chức cho nhiều đơn vị tư nhân đấu thầu việc này. Số liệu năm đó cho biết: có hơn 2,5 triệu người chết!» Không thấy ông Lưu Công Thành cho biết đã dựa vào tài liệu nào để nói rằng số thương vong, theo số liệu, lên đến hơn 2,5 triệu người!

Ông Lưu Công Thành tiếp: «Hậu quả là dân một số nơi gần như giảm đi quá nửa, một phần chết đói tại sinh quán, một phần bỏ làng đi rồi không trở về nữa. Tất cả dẫn đến tình trạng thiếu hụt sức lao động và ruộng canh tác bỏ không rất nhiều. Chăn nuôi cũng bị ảnh hưởng nặng, gia súc (kể cả chó) không còn bao nhiêu do bị giết để lấy thịt. Thậm chí có một số câu chuyện kể rằng có hiện tượng bắt cóc trẻ con để lấy thịt! Một nhân viên tại Sở Cảnh Sát Hải Phòng thừa nhận như vậy, tuy nhiên chính quyền không xét xử công khai vì sợ lòng dân hoang mang.»

Ong Đỗ Hữu Nghiêm tường thuật theo ký ức trong một bài viết có bổ sung ngày 13.12.2004 tại Dayton, Ohio, như sau. «Ở miền quê tôi, làng Hòa Khê, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, khu vực giáp ranh với huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông, cách Hà Nội 45 cây số, chỉ mới lên bảy tuổi, tôi còn nhớ cảnh thương tâm (…) người đói lả nằm ngã lăn bừa bãi khắp nơi ở giữa hay bên đường, trên đồng ruộng, trước cửa nhà, (…) rồi chết tất tưởi trong tình cảnh tứ cố vô thân, rách rưới. Số người chết đông đảo đến nỗi chôn không xuể, khiến bị nhiễm trùng và có nơi đã có dịch.»

Ong Nghiêm viết tiếp: «Ở đầu làng tôi, bên kia sông, (…) người làng tôi thấy có quá nhiều người chết la liệt ở cả hai bên sông, nên những người còn khỏe mạnh rủ nhau đi (…) thu lượm những xác chết lại, (…) đem chôn vùi như ma đuổi tất cả số người đói đó trong một chiếc hố tập thể. Trong số người chết, có cả những người còn ngoắc ngoải, chưa hết hẳn, có người còn rên lên: «Đừng chôn sống chúng tôi, để chúng tôi chết hẳn đã.» Bất chấp những lời than vãn đó, người còn khỏe mạnh cứ lấp đất vội vàng trên những thân thể còn chút hơi sống đó và tiếng kêu chỉ tắt hẳn khi những tảng đất định mệnh bên bờ sông được lấp đầy! Hình ảnh đó ám ảnh đám trẻ chúng tôi nhiều tháng trời và mùi hôi trong nấm mồ tập thể đi theo chúng tôi khắp nơi, đến tận giấc mơ hãi hùng trên giường ngủ. (…) Đầu cầu tre bên làng, có một thanh niên gần chết nằm im lìm đầu xóm giữa ngay ngã ba đường vì không còn hơi sức cử động. Thấy thế đám trẻ tinh nghịch trong làng chạy đến xúm xít bu quanh xem người nằm đói có lẽ đang hấp hối. Một thanh niên còn trẻ nhưng trông như một cụ lão già, quần áo tả tươi, rách nát, nhăn nheo, chỉ còn da bọc xương, để lộ cả mông và bộ phận sinh dục. Bỗng nhiên một đứa tinh quái, nghịch độc, bẻ một cành tre, rồi chọc vào hậu môn người sắp chết. Thân thể đáng thương kia chỉ giật giật nhè nhẹ, chắc có vẻ đau đớn mà không phản ứng gì được. Một chú bé đứng xem gần đó bịt mặt, với đôi mắt đỏ hoe sợ hãi vội quay đi, chạy trốn về nhà.»

Ong Nghiêm tiếp tục kể: «Tại Ninh Cường, cách Trung Linh, Bùi Chu khoảng hai mươi cây số đường bộ, nằm ở giữa vùng Đồng Bằng Bắc Việt, có lẽ là khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của châu thổ sông Hồng, theo lời chứng của một linh mục, thì ở nhà Chung Ninh Cuờng lúc đó (năm 1945) mọi người chỉ được ăn một bữa. (…) Những người từ các làng quê kéo ra xin ăn, vì không còn thóc hay khoai sắn để ăn. Quân đội Nhật ra lệnh, dưới áp lực súng ống lưỡi lê, cho tất cả các nông gia phải đóng thuế bằng hiện vật, tức là phải gánh hết thóc trong nhà đổ vào các kho chứa của nhà nước lúc đó mà người Nhật đã chiếm đóng và quản lý. Có cả trăm người lết đến khu vực Nhà Chung Ninh Cường tạm trú trong các lều tranh bên vệ đường… Thấy thế, Nhà Chung cho nhà bếp nấu cháo, phân phát cho những người đói ăn. Có người ăn được bát cháo hôm trước, thì hôm sau lăn đùng ra chết; người ta chết chồng lên nhau cả hằng chục hằng trăm không đếm cho xiết.»

Cũng theo ông Nghiêm, tại Thái Bình, một nhân chứng đặc biệt ghi nhận như sau: «Tháng Ba năm ấy, nay quen gọi là tháng Ba đói của năm At Dậu, 1945, (…) nhiều người đói quá, đã chết vì đói. Nhiều người đói quá, nên đành bỏ nhà, bỏ quê. Chiều hôm ấy, tôi đi bộ từ Thái Bình về Thượng Phúc. Đường vắng. Thỉnh thoảng tôi gặp những thân người tiều tụy ốm o, lê bước, ngẩn ngơ, mệt mỏi. Họ đi kiếm ăn. Đi một mình, hoặc đi chung gia đình. Họ tìm bới hy vọng ở những đám cỏ, ở những đống rác bụi cây. Đến gần một bờ sông, tôi thấy ba người gầy guộc nằm bất động. Một phụ nữ trẻ đã chết, tay vẫn ôm đứa con nhỏ. Đứa con nhỏ cũng đã chết, miệng còn ngậm vú người mẹ đã chết. Một người đàn ông trẻ nằm sát bên kia đứa nhỏ đã chết, tay như đang cố với tìm chiếc chiếu rách cạnh bên, để đắp cho vợ con. Anh ngấp ngoái chết. Tôi nghẹn ngào ngồi lại. Anh nhìn tôi. Vài phút sau, anh tắt thở.»

HỒI KÝ LÊ VĂN LĂNG: Ở THÁI BÌNH, ĂN CẢ THỊT NGƯỜI!

Ong Lê Văn Lăng «chỉ xin thuật lại những mẩu chuyện 'mắt thấy tai nghe' trong những tháng ngày đen tối ấy» trong tập hồi ký của ông: «Cùng với cả miền Bắc Việt Nam lúc đó, cuối năm 1944, đầu năm 1945, Thái Bình cũng đã phải gánh chịu 'quốc nạn' này. (…) Tháng 11 năm ấy, tiết trời đặc biệt rét đến sớm hơn mọi năm, khiến con người ta ai cũng thấy đói 'mọi lúc mọi nơi'. (…) Càng rét người ta lại càng thấy đói, càng đói người ta lại càng thấy rét, cái vòng lẩn quẩn ấy bao vây dân nghèo ngày một gay gắt hơn bao giờ hết. Thái Bình thời ấy được mệnh danh là 'vựa lúa' của miền Bắc với những cánh đồng 'cò bay thẳng cánh, chó chạy cong đuôi'. Nhưng thật trớ trêu, chính ở trên mảnh đất ấy, cái đói đến với tầng lớp 'lê dân' mới thật dữ dội kinh khiếp nhất, vượt quá sức chịu đựng bình thường của con người. Quân Nhật thông qua chính quyền bảo hộ Pháp buộc nông dân phải nộp hết thóc lúa cho chúng để phục vụ cho lính 'Thiên Hoàng', rồi lại cưỡng ép phá hoại trồng lúa trong vụ Đông Xuân năm ấy, để dành đất trồng đay làm bao công sự chiến đấu chống lại quân đồng minh. Thật là 'họa vô đơn chí', năm đó Thái Bình bị mất trắng vụ lúa do bị hạn hán hoành hành khắp nơi.(…) Tất cả những gì ăn được người ta đã ăn hết cả rồi, khoai sắn củ còn non biến mất quá nhanh vào dạ dày lép kẹp, rồi gia súc chó mèo đều lần lượt phải 'hy sinh' cho bao tử của chủ.»

Ong Lăng tiếp: «Không phải mọi người đều chịu cái đói; ở thành thị, công chức, người đi buôn vẫn sống bình thường, tuy có điều vất vả; chính nông dân ở các làng mới bị đói nhiều ngày trên mảnh đất ruộng vườn của họ. Không còn gì để bỏ vào bụng nữa, người dân lam lũ từ các vùng chung quanh bắt đầu ùn ùn kéo nhau về thị xã trung tâm. Nhiều huyện như Kiến Xương, Tiền Hải, người ta kiếm ăn bằng mọi cách để rồi ngã chết ra cả nhà. Những người còn sức đi được thì đi thành từng đoàn, họ lê bước trên những nẻo đường về thị xã với bộ quần áo rách rưới, có người gần như trần truồng vì đã bán những bộ quần áo lành lặn để đi đổi lấy gạo ăn. Cái đói cái rét cắt thịt như thúc giục họ tiến bước về phía trước. Những người nào đói quá thì lả đi gục xuống để rồi không bao giờ dậy nổi nữa. Hai bên đường, thây người chết đói ngã ra như rạ, lại càng thúc giục họ đổ về thị xã Thái Bình bất chấp một vành đai lính tráng bao quanh khu vực thị xã ngăn không cho họ vào. Tôi nhớ rất rõ lúc ấy là vào khoảng gần tết, trời mưa phùn âm ỉ kéo dài suốt cả tuần lễ khiến cho cái rét lạnh căm căm càng thúc đẩy làm tăng cái đói cồn cào xé ruột xé gan, ăn được một chút là thấy đói ngay, lúc nào cũng cảm thấy đói. Ở các chợ trong thị xã, người dồn về rất đông mặc dù bị lính xua đuổi rất ráo riết, nhưng sáng nào người ta cũng hốt được vài ba xác chết vì đói rét, hoặc nằm ngang chợ hoặc dưới các mái hiên nhà.»

Ong Lê Văn Lăng lúc bấy giờ là nhà giáo, dạy ở trường tư thục Pascal tại thị xã Thái Bình và vừa dạy kèm con cái của ông Hào Thùy và ở trọ luôn đó. Ong kể: «Hôm nào đến trường cũng nhặt được hai ba xác trẻ em đã chết cóng từ đêm hôm trước, tôi cùng học trò phải mang đi chôn sau trường. Một hôm, nhân có việc đi chợ Kiến Xương thì tôi bắt gặp một người đàn ông có dáng lực điền đang gánh một gánh có vẻ khá nặng, phía trên có đậy một chiếc nón lá rách. Bỗng tôi phát hiện có tiếng gì tựa như âm thanh của trẻ sơ sinh phát ra từ đôi quang gánh ấy, tôi bèn lập tức níu ông ta lại xem có phải không, thì mới biết trong đó có khoảng chục đứa bé mới sinh còn đỏ hỏn mà vài đứa đã chết. Ong ta thú thật là đã gánh chúng đến từ một làng vùng xa định dến Duyên Hà gởi cho các bà xơ từ thiện. (…) Tôi hết sức phẫn nộ và bảo ông ta còn đến gần 30 cây số đường đất nữa mới đến được chỗ ấy, mà chắc chắn là khi đến nơi thì những đứa bé sẽ không còn sống nữa đâu.»

Sau khi bảo ông tá điền đem gởi các trẻ sơ sinh ấy tại nhà ông Lại Mân, địa chủ giàu nhất Thái Bình, ông Lăng đi tiếp. Ong kể: «Tôi tiếp tục đi đến chợ Kiến Xương thì thấy rất nhiều xác chết nằm la liệt trên sân chợ. Có một người phụ nữ đã chết không biết từ lúc nào nhưng đứa con nhỏ vẫn còn sống, đang bám vào ngực mẹ nó mà bươi bươi đôi vú một cách cuống quít rồi nhai lấy nhai để không thôi. Sau đó vài giờ, tôi về ngang chợ thì thấy đứa bé cũng đã chết. (…)

Bữa nọ có dịp đi ngang qua Cầu Bo thấy có vẻ khác lạ ở đầu cầu, tôi cùng các học trò tò mò đứng nhìn xem, thì đã phát giác có khoảng ba, bốn gia đình đang ở đó, có người đang luộc thịt những người hàng xóm để ăn, xương tay xương chân vứt ngay bên cạnh! Đêm mùa đông rét mướt lạnh lẽo cũng trở nên không yên tĩnh tí nào khi hằng đêm đương ngủ, thỉnh thoảng người ta nghe tiếng ré lên của trẻ con. Phóng vội ra ngõ với cây đèn bão trên tay, mọi người sẽ bắt gặp xác đứa trẻ bị người lớn hút máu nóng với que tre cắm trong cuống họng. Đêm nào cũng có vài ba vụ như vậy mà kẻ thủ ác cũng vẫn không có người buồn bắt bớ tra cứu nữa.»

TƯ NHÂN CHỊU BẦM DẬP ĐỂ CỨU ĐÓI, ĐÀNH BUÔNG TAY!

Quá bức xúc trước cảnh chết chóc thảm thiết, ông giáo Lăng và bạn bè cùng học trò đã nảy ra sáng kiến đứng lên vận động quyên góp để cứu đói. Lần đầu tiên phong trào «lá lành đùm lá rách» được phát động ở Thái Bình. Ong chủ nhà Hào Thùy, một hào phú trong vùng chuyên đi thu mua gạo cho nhà nước Pháp, đã đóng góp mở màn 10 tạ gạo nếp. Phong trào quyên góp lan rộng đến các trường khác và có sự tham gia của các phụ huynh học sinh nữa. Cũng gần đến tết nguyên đán rồi, tiện thể bà con tổ chức nấu bánh chưng để phát cho người nghèo đói. Giới công chức trong tỉnh cũng kéo đến tham gia, người góp gạo, kẻ góp nếp, đậu, người khác góp lá dong, công việc gói bánh kéo dài trong 5, 6 ngày liền. Mấy chục lò bánh xuất hiện ngay ở sân trường. Kết quả có đến 6.500 bánh nặng ngót nghét 1 kilô, được xếp gọn trong kho nhà ông Hào Thùy.

Thế rồi đến hồi phát bánh, tưởng nhỏ mà thành to chuyện. Biết rằng dân nghèo vốn đói đã lâu, khó giữ được bình tĩnh khi thấy cái ăn, nên ông giáo Lăng đem bánh ra khu nghĩa địa Thái Bình, dùng cổng hé mở cho từng người vào nhận bánh, đánh dấu vào tay, rồi ra về trong trật tự. Ong giáo Lăng kể tiếp : «Thời gian đầu công việc có vẻ thuân lợi… Nhưng độ nửa giờ sau, chúng tôi quá đỗi kinh hoàng khi nghe thấy tiếng chạy của hàng ngàn người từ các làng lân cận kéo đến, họ vừa chạy vừa la «Phát bánh chưng chưa! Phát bánh chưng chưa!» với âm thanh ồn ào và náo nhiệt chưa từng thấy. Họ leo tường vào nghĩa địa một cách chóng vánh, rồi hàng nghìn người chen chúc dẫm đạp lên nhau, dẫm đạp lên cả bánh chưng. Tiếng người gọi nhau ơi ới hòa lẫn tiếng khóc thét của trẻ con trong khu vực nghĩa địa mênh mông đó. Chúng tôi chỉ còn biết bất lực đứng nhìn, ai nấy người đầy bùn đất nhão nhoẹt, để rồi khi đám đông rút đi thì dưới mặt đất nào là bánh chưng bị dẫm đạp nát nhoẹt cả ra, có vài ba xác trẻ em bị chèn đè dẫm đạp đến chết. (..) Tôi không thể cầm được nước mắt. Chúng tôi lắc đầu ngao ngán vì đã không thể nào lường trước được tình huống… »

Cũng may, hôm ấy chỉ mới kịp đem ra nghĩa địa vài trăm bánh chưng thôi. Nên phải tính kế khác để phát cho hết. Trong phiên họp nhà giáo của tỉnh sau đó, ông Đốc Quýnh là viên quan trông coi về giáo dục trong toàn tỉnh Thái Bình mới được hay biết vụ phát bánh chưng đổ bể. Đốc Quýnh la rầy trách mắng các thầy kém tổ chức và vỗ ngực xung phong hôm sau làm một chuyến ra ngoài thành biểu diễn phát bánh chưng làm gương. Ong giáo Lăng kể tiếp: «Sáng hôm sau, ông Quýnh đóng bộ veston cà vạt cẩn thận có batoong bên cạnh, còn bà vợ ông thì áo dài đánh xe đến chỗ chúng tôi. Hai ông bà đi trên hai chiếc xe kéo rất ư là sang trọng (thời ấy người giàu có quan quyền đều có xe kéo riêng, phu xe được nuôi ăn ở trong nhà, xe được đóng rất kỹ lại được trang trí bằng đồng sáng loáng, rồi lại được sơn vàng toàn bộ rất rực rỡ) đến trường chúng tôi, gọi bảo chất lên cho mỗi xe độ khoảng 50 bánh chưng và lên đường xuất phát trực chỉ các làng xa ở ngoại thành. Tôi liền cho vài học sinh đi theo sau để nắm tình hình, thì khoảng độ non giờ sau có em về báo là ngài Đốc Quýnh và phu nhân đã 'gặp nạn' rồi.» Thực vậy, xe chưa đi đến đâu thì đã bị đám đông ùn ùn vừa chạy tới vừa thét vang dội «Phát bánh chưng! Phát bánh chưng!», rồi chận đường, níu kéo xe, dẫm đạp, chen lấn, dày xéo lên nhau để cướp bánh, bất kể ông Đốc điên tiết lên dùng batoong phất lia lịa vào họ. Sau khi đám đông rút lui, theo ông giáo Lăng kể lại, «hai chiếc xe kéo đẹp đẽ bị gãy nát thảm thương, hai ông bà thì quần áo rách bươm, mặt mày bùn đất bê bết ngao ngán lắc đầu, bánh chưng thì rơi vãi nhão nhoẹt trộn lẫn với bùn đất. Anh đánh xe thì mặt mũi bầm tím, cộng thêm xác vài ba đứa trẻ kiệt sức chết vì bị dẫm đạp trong cơn hỗn loạn.»

Ong giáo Lăng kể tiếp: «Cuối cùng thì chúng tôi cũng phân phát hết được số bánh chưng tồn đọng bằng cách cho các học sinh mang trong người mỗi em vài bánh, tỏa đến các làng xa vào ban đêm để phát cho từng nhà quá đói rét. Tất nhiên việc thiên vị của các em là không thể tránh khỏi khi đi phát như thế, nhưng chúng tôi không thể có sự chọn lựa nào khác.»

Được biết, tại nhiều tỉnh khác, có nhà phú hào trong làng động lòng trắc ẩn trước cảnh chết chóc thê thảm, đã cho nấu cháo phát thí cho bà con ăn đỡ đói. Nhưng chỉ vài giờ sau, hoặc hôm sau, là phải đóng cửa then gài thật kỹ, vì số người đói ăn kéo nhau đến quá đông, gây ra cảnh xô xát, cướp giựt bấn loạn cả lên. Có nơi, dân đói tràn vào nhà, đập phá và cướp bóc hết lúa gạo của khổ chủ. Từ đó, tin đồn loan đi, chẳng mấy ai dám ra tay làm nghĩa hiệp nữa. Cứ thế, mỗi ngày lưỡi hái của tử thần vẫn lặng lẽ cướp đi hàng ngàn hàng vạn người lê dân cùng khổ, bất hạnh, cô thế, bất lực, đành cam chịu bản án của số mệnh…

AI GÂY RA TỘI ÁC DIỆT CHỦNG KINH HOÀNG NÀY ?

Theo ông Lưu Công Thành, có ba nguyên nhân lớn liên quan đến chính sách của thực dân Pháp đang đô hộ nước ta lúc bấy giờ.

« 1- Do chính sách thu thóc của Pháp: trung bình mỗi năm Bắc Kỳ thu hoạch được 1.275.000 tấn thóc (1927-1931) (đã trừ ra 325.000 tấn dùng vào xuất khẩu, nấu rượu và làm giống). Tuy nhiên số thóc này phải nuôi đến 6.500.000 người dân, chưa kể đến năm 1944 lại có thêm 100.000 quân Nhật, bọn chúng lại còn lấy thêm để vận chuyển viện trợ cho lực lượng tại Quảng Tây. Tháng 7.1945, giá chính thức do Nhật ấn định là 55$ một tạ (giá mua vào của nhà nước), trong khi thị trường lên đến 800$ một tạ. Kết quả, nông dân Bắc Kỳ nghèo xác xơ, phải bán cả nhà cửa con cái để có tiền nuôi gia đình. Năm 1944, Pháp còn bí mật thu thêm 186.180 tấn để trữ vào kho, làm lương thực khi có chiến tranh Pháp-Nhật.

« 2- Chính sách bắt dân nhổ lúa trồng cây công nghiệp cho Nhật: chính phủ Đông Dương bắt các tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương, Nam Định, Thái Bình nhổ thóc trồng các cây công nghiệp để cung cấp cho Nhật.[1] Tờ trình của thống sứ Bắc Kỳ Chauvet năm 1944 cho biết: diện tích trồng các loại cây trên đã lên đến 45.000 mẫu. Làm một phép tính nhỏ thì với diện tích đó người dân có thể khai thác 585.000 tạ thóc (năng xuất 13 tạ/mẫu). Nếu trồng thêm khoai, khoai mì thì được thêm 110.000 tạ, tính theo dinh dưỡng là tương đương 72.000 tạ thóc. Như vậy, 45.000 mẫu = 657.000 tạ thóc = 547.500 nhân mạng! Một con số lạnh lùng và tàn nhẫn!


« 3- Sự cố ý của Pháp để thủ tiêu tinh thần khởi nghĩa của nhân dân và (vì có) kế hoạch thuê nhân công với giá thành rẻ, một khi tại các nông thôn đã không còn đủ ăn. Bulletin économique de l’Indochine năm 1944 cho biết: 'người ta vẫn thấy gạo Nam Kỳ chở ra tới Vinh, nhưng người Pháp cho tích trữ lại trong các kho ở đó và chỉ cho ra tới Bắc Kỳ một số rất ít.', năm đó tại Nam Kỳ giá gạo rẻ đến nỗi nhà đèn Chợ Quán phải đốt thóc thay thế cho than đá.»

Về kế hoạch bóc lột tàn nhẫn của thực dân Pháp, ông Lưu Công Thành trích dẫn Desrousseaux viết như sau: «Người nhà quê Việt Nam chỉ chịu rời bỏ làng xóm để làm việc khi hắn chết đói, nên phải đi đến kết luận lạ lùng này là phương thuốc để chữa sự quẫn bách hiện tại (sự thiếu nhân công ở các đồn điền cao su và mỏ) là phải bần cùng hóa nông thôn, rút bỏ những sự cấp phát, hạ giá nông nghiệp.»

Trong bài “Gây ra nạn đói năm 1945”, Gs Trần Gia Phụng cho rằng có “nhiều nguyên nhân gây ra nạn đói 1945 tại Bắc Việt, trong đó nguyên nhân chủ yếu bắt nguồn từ chính sách Nhật Bản áp dụng tại Việt Nam trong thế chiến thứ nhì (1939-1945).” Để dẫn chứng, ông Phụng trích dẫn ông Ngô Thế Vinh viết từ tập tài liệu “Chiến tranh châu Á trong tiềm thức của chúng ta” của một người Nhật, ông Yoshizawa Minami; ông này xác nhận như sau: “Tình hình khu vực Việt Nam thật đặc biệt do sự có mặt thường xuyên của 80 ngàn quân ta và 200 ngàn lực lượng hậu cần đã khiến tình trạng kinh tế ở đây hỗn loạn đến cực độ. (…) Đông Dương có một vị trí then chốt đối với Nhật Bản về lương thực. Ngoài lượng gạo nhập khẩu vào Nhật, quân đội Nhật còn rất cần một trữ lượng gạo lớn lao để tiếp tế cho các mặt trận đang lan rộng ra khắp Á Châu và khu vực Thái Bình Dương. Đây chính là nguyên nhân trực tiếp gây nạn chết đói cho hai triệu người Việt năm 1945…”[2]

Theo ông Phụng, cũng do chính sách của Nhật buộc nông dân phải dùng đất đai phì nhiêu để trồng cây kỹ nghệ, những hoa màu chính giảm xuống rất đáng kể. Dân chúng nông thôn đói khổ đành sống qua ngày với những loại thực phẩm phụ. Trong khi đó, theo thỏa hiệp với Nhật ngày 19/08/1942, nhà cầm quyền thực dân Pháp tại Đông Dương đã phải xuất cảng sang Nhật trên 1 triệu tấn gạo hạng tốt nhất trong các vụ mùa 1942-1943. Để bảo đảm, Pháp lập ra những kho gạo an toàn. Viên thống sứ Pháp ở Bắc Kỳ còn buộc các làng xã phải lập những kho dự trữ tương ứng với sản lượng lúa gạo của làng đó, để có thể đáp ứng yêu cầu của nhà cầm quyền Pháp.

Ong Phụng trích quyển «Việt Nam 1945, Đi Tìm Quyền Lực»[3] của ông David G. Marr, tt. 97-98, rằng trong khi lúa gạo khan hiếm, người Pháp lại mua gạo để trữ cho các kho quân lương. Người Nhật cũng làm như vậy, và đến tháng 05/1945 họ đã tích lũy một số gạo đủ dùng trong 6 tháng cho Quân Đoàn thứ 38 của họ ở Đông Dương. Theo Ngô Thế Vinh, bđd tr.171, nạn đói bùng nổ từ mùa thu năm 1944 trở đi khi thời tiết xấu làm cho vụ mùa năm ấy tiếp tục hư hại. Trong khi dân đói ăn, kho gạo của Pháp và Nhật luôn đầy đủ. Ong Vinh trích dẫn lời chứng của một người Nhật, ông Kawai, quản lý kho gạo ở Nam Định, nơi nạn đói nặng nề nhất: “Tại một khu nhà thờ Thiên Chúa giáo (do Nhật trưng dụng làm kho), gạo chứa đầy ấp trong kho, lại thấy người chết đói ngã lăn dọc đường suốt từ Nam Định tới Hà Nội, tôi đã cố thuyết phục tùy viên kinh tế của đại sứ quán Nhật mở các kho gạo đó nhưng họ không nghe.”

Ngoài Pháp và Nhật ra, theo ông Phụng, điều đáng ghi nhận thêm ở đây là nạn đói năm At Dậu làm cho dân chúng Việt Nam thêm nghèo đói, cơ cực hơn trước nhiều, nên đã tạo một môi trường vô cùng thuận lợi cho Cộng sản Việt Nam (CSVN) núp dưới danh nghĩa Việt Minh lợi dụng để tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng và phát động kế hoạch phát triển lực lượng kháng chiến của họ. Trước tiên, họ xúi dân chúng chống đối việc trưng mua lúa gạo, đánh phá các kho lúa của thực dân Pháp và phát xít Nhật, và nhờ thế mà chiếm được lòng dân. Tiếp đến, theo David Marr, sđd tr.104, họ âm thầm chận bắt những chuyến xe hoặc chuyến ghe chở gạo từ miền Nam ra miền Bắc để đem về tiếp tế cho mật khu của họ. Có người vì quá đói nên phải tìm đến đó kiếm ăn và gia nhập Mặt Trận Việt Minh luôn. Hành động của Việt Minh đánh phá các tuyến đường tiếp vận thật lưỡng tiện: cản trở đường tiếp viện của Pháp và Nhật từ Nam ra Bắc, và làm cho chiến dịch tuyên truyền kích động quần chúng của họ ngày càng mở rộng khi mà nạn đói ngày càng trở nên trầm trọng. Chính vì đó, CSVN phải được coi là tòng phạm trong vụ đói năm Ất Dậu vậy. Lại nữa, theo Ngô Thế Vinh, bđd tr.173, sau ngày tuyên bố độc lập 02/09/1945, Việt Minh đã tịch thu toàn bộ tiền bạc của các quỹ cứu đói trên toàn quốc, nghĩa là cướp lấy tài sản của những kẻ đang đói được bà con hằng tâm khắp nước giúp đỡ.

VÌ “QUYỀN LỢI NHÀ NƯỚC”, HÀ NỘI BÁN ĐỨNG DÂN VIỆT

Ai cũng biết, nạn đói khủng khiếp năm At Dậu do hai thủ phạm chính gây ra là phát xít Nhật và thực dân Pháp. Pháp vui mừng vì tưởng rằng trận đói sẽ khiến cho người dân Việt kiệt sức đề kháng thực dân Pháp, đang khi ngược lại Việt Minh cũng vui mừng nhờ biết khai thác được lòng căm thù của dân chúng để lôi kéo dân về với họ. Sau khi thua trận và ký hiệp định đình chiến Genève với Việt Minh năm 1954, Pháp xoay qua o bế Hà Nội và chống lại sự can thiệp của Mỹ vào chiến tranh Việt Nam với việc dựng lên chính phủ Ngô Đình Diệm ở Miền Nam VN. Rồi từ đó đến nay, vì “quyền lợi nhà nước”, Hà Nội ngậm bồ hòn bỏ qua tội ác của Pháp trong vụ đói năm At Dậu và tội ác Pháp gây chiến tranh chinh phục lại Đông Dương. Chỉ có dân Việt Nam là bị bán đứng, phải còng lưng cam chịu đói khổ chết chóc dài dài từ cái Tết At Dậu định mệnh ấy cho đến suốt 30 năm chiến tranh khốc liệt tiếp theo, gây thêm trên 3 triệu tử vong phía người Việt và cảnh đất nước tang thương vô cùng tận. Rồi từ 1975 đến nay, CSVN ngồi xổm chễm chệ trên đầu trên cổ dân, cướp công kháng chiến của dân, và gây ra nghi kỵ, xăm xỉa, hận thù chồng chất thêm giữa người Việt với người Việt để dễ bề cai trị.

Thực vậy, theo giáo sư Trần Gia Phụng trả lời phỏng vấn của VNN năm 2004, thì vào năm 1945 Việt Minh không chỉ khai thác lòng căm thù chống Pháp của người dân Việt, mà còn là tòng phạm với Pháp và Nhật do việc lợi dụng nạn đói diệt chủng này. Gs Phụng nhắc lại rằng, trong bài viết “Nhật Bản và chiến tranh Việt Nam” nhân dịp Đại Học Đông Kinh tổ chức hội luận ngày 14/01/2002 về đề tài “Hồi ức chiến tranh…”, ông đã ghi nhận dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa (của tổng thống họ Ngô), Nhật ký thỏa ước với Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) ngày 13/05/1959 trả 39 triệu mỹ kim để bồi thường chiến tranh, chứ không phải là bồi thường thiệt hại về nạn đói 1945, và còn viện trợ cho VNCH xây dựng đập Đa Nhim ở Đà Lạt nữa. Sau 1975, Nhật viện trợ nhiều cho Hà Nội và còn giúp xây dựng cây cầu Cần Thơ qua sông Hậu Giang khởi đầu từ năm 2005. Vì “quyền lợi nhà nước”, chế độ CSVN cúi đầu ăn xin nhục nhã viện trợ và đầu tư Nhật, ngậm bồ hòn về tội ác của Nhật đối với VN trong thế chiến thứ hai, nhất là về tội ác trực tiếp gây ra nạn đói năm At Dậu mà CSVN đã góp phần với Nhật và Pháp.

Học giả Trần Khuê (Trung tâm Hán Nôm của chế độ Hà Nội), trong bài viết “Không được phép xuyên tạc lịch sử” tháng 9/1998, đã phê bình gay gắt cuộc hội thảo hai ngày 27 và 28/03/ 1998 về “Mối quan hệ Việt-Nhật trong lịch sử 1940-1975” do Viện Khoa Học Xã Hội tại Tp Hồ Chí Minh tổ chức. Ong Trần Khuê cho rằng chế độ Hà Nội đã phạm sai lầm nghiêm trọng khi không có lấy cho cuộc hội thảo “một báo cáo khoa học nào khảo sát và phân tích nạn đói năm 1945 do phát xít Nhật gây ra và làm chết hai triệu dồng bào ta”, một “sự kiện lịch sử quan trọng (…) gây nhức nhối lương tâm của dân tộc và nhân loại”. Ong Trần khuê cũng kinh ngạc không thấy nhắc đến, trong tài liệu tham khảo cũng như trong lúc thảo luận, công trình nghiên cứu trước đó về nạn đói năm At Dậu dày 728 trang do Gs người Nhật Furuta Moto hợp tác với Gs Văn Tạo cùng 14 đồng tác giả đã khảo sát tới 334 đơn vị tư liệu và trên thực địa với những nhân chứng sống ở Việt Nam trong mấy năm liền. Công trình này đã xác nhận “con số hai triệu đồng bào ta đã chết đói năm 45” sau khi đã được các nhà khoa học Nhật tranh luận khá dữ dội. Ay thế mà, theo ông Trần Khuê, nhóm nghiên cứu Đinh Văn Liên (phó tiến sĩ khoa học lịch sử, giám đốc Trung tâm Sử học) dám xuyên tạc lịch sử, lập lờ ấm ứ nói “hơn một triệu” người chết trong bản báo cáo của ông trong cuộc hội thảo nói trên.

Ong Trần Khuê còn nhắc đến “một nhà khoa học Nhật – giáo sư Tabuchi Yukichita – đã viết hẳn một cuốn sách với nhan đề: “Chúng ta có nghe tiếng kêu của hai triệu người chết đói không?”. Ong Trần Khuê tiếp: “Hẳn là nhà khoa học Nhật này phải có một trái tim, một lương tâm nào mới viết đuợc một cuốn sách mà ngay cái tên của nó đã chứa chan tinh thần nhân văn như thế.” Ong Trần Khuê còn tỏ ra kinh ngạc hơn nữa về cách nói nâng bi của ông Liên khi ông này cứ “nhấn đi nhấn lại tính chất nhân đạo của viện trợ Nhật” trong giai đoạn 1945-1975, như cố lấp liếm về tội ác chiến tranh của phát xít Nhật, để rồi quyết chịu đấm ăn xôi “viện trợ” của Nhật cho Hà Nội ngày nay! Ong Trần Khuê còn thấy buồn cười khi nghe ông Liên “coi việc phát xít Nhật xâm lược nước ta là một cơ may” “để hiểu biết nhau”, “một điều kiện thuận lợi cho những mối quan hệ liên tục và biến đổi sau này vì lợi ích của mỗi dân tộc”! Ong Trần Khuê tiếp: “Than ôi, một ông phó tiến sĩ khoa học lịch sử lại có thể nhầm lẫn giữa mục đích với hệ quả một cách thảm hại đến như thế”.

Tóm lại, trong nạn đói năm At Dậu 1945, hơn hai triệu vong linh Việt Nam đã bị hy sinh một cách thảm thương, oan ức, phí phạm, cho các thế lực ngoại bang là thực dân Pháp và phát xít Nhật cũng như cho đám chính khứa điếm thúi CSVN, mà cho mãi đến ngày nay những oan hồn này vẫn bị lảng quên, ruồng rẫy, và không ai dám lên tiếng để giải oan cho họ. Dân tộc Việt Nam đã bị CSVN phản bội, bán đứng cho các thế lực quốc tế, chắc không thể ngửng đầu lên nổi bao lâu oan hồn của hơn hai triệu nạn nhân trong vụ đói năm At Dậu và ba triệu nạn nhân trong chiến tranh Việt Nam ở cả hai Miền Nam Bắc VN chưa được tưởng niệm một cách xứng đáng.

Fribourg ngày 21/01/2005



[1] Theo Gs Trần Gia Phụng, thực dân Pháp buộc giới nông gia Việt Nam phải bớt trồng lúa để trồng cây kỹ nghệ, như bông vải, đay, gai, cây có dầu, để đáp ứng nhu cầu nguyên vật liệu của Đông Dương vì đường nhập cảng từ Pháp gặp khó khăn, và cũng vì sức ép của quân đội chiếm đóng Nhật để cung ứng cho nhu cầu chiến lược của họ. Theo báo Lục Tỉnh Tân Văn ngày 04/08/1943, Nhật buộc nông dân phải trồng cây gai ở Bắc Kỳ, tăng diện tích trồng gai lên 10 nghìn mẫu để có thể sản xuất 2.600.000 chiếc bao gai. Trong vòng 3 năm, diện tích trồng cây kỹ nghệ gia tăng gấp hai trên toàn cõi Đông Dương, từ 88.200 mẫu năm 1942 lên đến 154.517 mẫu năm 1944. Riêng tại Bắc Việt, diện tích này tăng hơn gấp hai, từ 18.850 mẫu năm 1942 lên đến 42.546 mẫu năm 1944.

[2] Ngô Thế Vinh dịch và trích dẫn trong bài «Từ At Dậu 1945- sáu mươi năm đi tới cây cầu Cần Thơ- 2005» đăng trên tạp chí Hợp Lưu, California, số 51, tháng 2&3 năm 2000, tt 170-171.

[3] «Vietnam 1945, The Quest for Power», University of California Press, Berkeley, 1995.

Monday 10 August 2009

Các linh mục ''trẻ''

MicrosoftInternetExplorer4

Các linh mục ''trẻ'' Dòng Chúa Cứu Thế dự khóa bồi dưỡng về Truyền thông

VietCatholic News (07 Aug 2009 19:01)

SAIGÒN - Sau ngày đại lễ mừng kính Thánh Tổ Phụ Anphongsô, các "các cha trẻ" Dòng Chúa Cứu Thế tạm biệt cộng đoàn mà các Cha đang giúp mục vụ để trở về nhà Mẹ. Trở về nhà Mẹ lần này, ngoài chương trình thường huấn chung của toàn Dòng, các “cha trẻ” ngồi lại với nhau để dự khoá III của chương trình Hậu Học Viện.

Nằm trong tiến trình đào tạo chung của Tỉnh Dòng, các “cha trẻ” được các vị hữu trách tổ chức các khoá Hậu Học Viện để bồi dưỡng, nâng cao kiến thức nhằm giúp các “cha trẻ” thêm khả năng để hội nhập với những vùng, những công tác mà các cha được gửi đến. Chương trình Hậu Học Viện này không chỉ nhắm đến những môn chuyên môn như Thánh Kinh, Giáo Luật mà còn có các lãnh vực khác liên quan đến đời sống mục vụ.

Theo dòng chảy của xã hội và đặc biệt đi theo suy tư Công Hội Tỉnh Dòng năm 2009 được tổ chức tháng 6 vừa qua, các “cha trẻ” được bồi dưỡng đặc biệt về truyền thông và quản lý mục vụ. Hơn lúc nào hết, Tỉnh Dòng thấy cần trang bị thêm cho anh em tu sĩ của Dòng, cách riêng các “cha trẻ” về lãnh vực này. Những bất công xã hội, những tệ nạn như tham nhũng, tệ nạn phá thai … đang diễn ra một cách hết sức trầm trọng nên truyền thông cần phải phát triển để kịp gióng lên tiếng nói của Chúa Kitô giữa lòng xã hội, giữa lòng dân tộc.

Khoá bồi dưỡng về truyền thông lần này, Tỉnh Dòng và cách riêng, các “cha trẻ” Dòng Chúa Cứu Thế được sự ưu ái cách đặc biệt của Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài. Đức Ông dù hạn chế về sức khoẻ lẫn không gian và thời gian nhưng vì tình thương với Giáo Hội Việt Nam, đặc biệt với Dòng Chúa Cứu Thế nên Ngài đã “chủ trì” khoá bồi dưỡng về truyền thông này.

Vốn dĩ là một người "miền
Nam chính hiệu" cộng thêm một người “nhà quê” chính gốc, nên Đức Ông thật đơn giản và khiêm hạ. Đức Ông đứng trước các cha trẻ trong một bầu khí chia sẻ thật gần gũi, không còn khoảng cách của một bậc thầy mà mà là sự hiện diện của người anh giữa các anh em. Chắc có lẽ nhờ vào sự giản dị, đơn giản mà phần trình bày của Đức Ông phần nào làm cho các “cha trẻ” dễ đón nhận, để tiếp thu hơn.

Buổi đầu tiên, còn lạ lẫm khi gặp nhau, Đức Ông trình bày về truyền thông với tính cách “khoa bảng” một chút nhưng từ buổi thứ hai tính cách “khoa bảng” ấy không còn. Tính cách “khoa bảng” được thay vào đó là tâm tình chia sẻ của một người anh, một người đi trước.

Với gần 40 năm làm việc ở Đài Chân Lý Á Châu cộng với vai trò đứng đầu Đài phát thanh Châu Á này thì quả thật có biết bao nhiêu là kinh nghiệm nơi Đức Ông. Trong những buổi “lên lớp” này, các “cha trẻ” đã kín múc được quá nhiều kinh nghiệm thực tế về lãnh vực truyền thông của Đức Ông.

Đề tài, lãnh vực mà Đức Ông chia sẻ thoạt đầu với cái tên gọi là “truyền thông xã hội” ấy nhưng thật sự nội dung chính Đức Ông trình bày đó là truyền thông Kitô hay nói khác đi Kitô truyền thông. Với ý hướng như vậy, Đức Ông mời gọi các “cha trẻ” làm sao phải biến mình thành con người truyền thông chứ không chỉ là nghe, nói về truyền thông. Hơn thế nữa, là vai trò ngôn sứ, là mục tử, Đức Ông nhấn tới nhấn lui hình ảnh của Đức Kitô mục tử nơi các “cha trẻ”. Nếu như các cha không sống, không mặc lấy tâm tình như Đức Kitô thì những lời trao giảng, những phần về truyền thông của các cha ra vô ích …

Với một tuần lễ vắn vỏi thì làm sao nói hết được kinh nghiệm của gần 40 năm qua. Cách riêng, Đức Ông còn quá nhiều thao thức nhất là tìm những người tiếp nối công việc của Đức Ông. Với lòng tin, Thiên Chúa đã gìn giữ Đức Ông trong gần 40 năm qua từ ngày qua Roma du học rồi “kẹt lại” Philippin cho đến ngày hôm nay thì Đức Ông vẫn tiếp tục phó thác trong lòng bàn tay của Chúa những ngày còn lại của cuộc đời. Quả thật, nơi Đức Ông, một con người luôn gắn bó mật thiết với Đức Kitô để rồi cả con người Đức Ông toát lên chất truyền thông Kitô giáo thật sự.

Khoá học dần khép lại nhưng các “cha trẻ” vẫn mong một ngày nào đó có thể lại được quây quần bên Đức Ông để học hỏi thêm về những kinh nghiệm của một người đã sống hết mình vì Chúa Kitô, vì giáo hội và vì anh chị em đồng loại. Tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo Hội Việt Nam có một người đã dấn thân dâng hiến suốt gần 40 năm để cho Đài Chân Lý Á Châu hoạt động và phát triển không ngừng.

Nguyện xin Chúa tiếp tục gìn giữ Đức Ông trong những ngày còn lại của Đức Ông để Đức Ông tiếp tục trên con đường truyền thông Kitô cho mọi người và cho mọi nơi.

Anmai, CSsR